NGHIÊN CỨU KHOA HỌC HOÀN CHỈNH (Thaopzo.hehe)

April 6, 2018 | Author: Anonymous | Category: Documents
Report this link


Description

MỤC LỤC PHIẾU KHẢO SÁT THÔNG TIN VỀ KỸ NĂNG MỀM CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI..........................................................................................................................3 LỜI CẢM ƠN Chúng em xin chân thành cảm ơn khoa quản trị doanh nghiệp trường đại học Thương Mại đã tạo điều kiện tốt cho chúng em thực hiện đề tài nghiên cứu này. Chúng em xin chân thành cám ơn cô Trần Thị Hoàng Hà đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo chúng em trong suốt thời gian thực hiện đề tài này. Chúng em xin chân thành cám ơn thầy cô trong trường đã tận tình giảng dạy trang bị cho chúng em kiến thức quý báu trong thời gian qua. Một lần nữa, chúng tôi xin chân thành cám ơn các bạn sinh viên trong trường đac giúp đỡ chúng tôi trong quá trình nghiên cứu điều tra phục vụ cho đề tài. Mặc dù chúng em đã cố gắng hoàn thiện bài nghiên cứu trong phạm vi và khả năng cho phép nhưng chắc chắn sẽ không thiếu khỏi những thiếu sót. Chúng em kính mong nhận được sự thông cảm và tận tình chỉ bảo của thầy cô và các bạn. Nhóm sinh viên thực hiện. Đinh Thị Phương Liên Đặng Thị Phương Thảo Nguyễn Thị Lan DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 1.SV 2.ĐHTM 3.TM 4.KNM 5.HCTC 6.GD 7.ĐT 8.VN 9.ĐH Sinh viên Đại Học Thương Mại Thương mại Kỹ năng mềm Học chế tín chỉ Giáo dục Đào tạo Việt Nam Đại học DANH MỤC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ Bảng 1: Yêu cầu về kỹ năng đối với sinh viên mới tốt nghiệp phân theo hình thức sở hữu, ngành, và vị trí tuyển dụng…………………………………………………6 + 7 Biểu đồ 1: Kết quả tự đánh giá của các bạn sinh viên Thương mại về kỹ năng mềm của bản thân………………………………………………………………............47 Biểu đồ 2: Kết quả đánh giá của sinh viên Thương Mại về mức độ cần thiết của các kỹ năng trong học tập………………………………………………………...........48 Biểu đồ 3: Kết quả đánh giá của sinh viên Thương Mại về mức độ cần thiết của các kỹ năng khi đi làm………………………………………………………………..49 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Thế kỉ 21, thế kỉ của sự phát triển, nâng cao không ngừng của văn hóa, kinh tế, đất nước. Để có thế bắt kịp đà phát triển của những nước lớn mạnh thì cần sự chung sức, đồng lòng của tất cả mọi người, mà lực lượng chủ yếu chính là tuổi trẻ. Bởi tuổi trẻ là lực lượng nòng cốt, là chủ nhân tương lai, là nhân vật chính góp phần tạo nên cái thế, cái dáng đứng cho Tổ Quốc Việt Nam . Nhất là các bạn sinh viên – nguồn lao động trí thức góp phần quan trọng phát triển nền kinh tế đất nước. Nhưng thời gian gần đây, vấn đề đang được xã hội quan tâm và phản ánh đó là phần lớn sinh viên thiếu kỹ năng mềm. Một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Giáo dục cho thấy 83% học sinh thiếu các kỹ năng mềm, đặc biệt là khả năng tập trung cho hành trang vào đời của mình. Thậm chí, nhiều người còn phàn nàn giới trẻ thiếu kỹ năng để giữ gìn hạnh phúc gia đình, kiểm soát bản thân, rèn chỉ số cảm xúc, làm chủ sự thay đổi, làm chủ thời gian sống, hoạch định mục tiêu nghề nghiệp, mục tiêu cuộc đời, ra quyết định. Nhiều sinh viên ngay sau khi tốt nghiệp đã thừa nhận không được nhận vào làm vì thiếu kỹ năng mềm, cụ thể là kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng giao tiếp.... Điều này đã không còn là trường hợp ngoại lệ đối với các sinh viên hiện nay. Đa số các bạn sinh viên đều có thể tự làm tốt, thậm chí xuất sắc nhưng khi làm việc nhóm thì lại đùn đẩy công việc, có tình trạng “cha chung không ai khóc”. Các bạn sinh viên đang học ở trường cũng luôn khẳng định kỹ năng mềm rất quan trọng trong việc học tập cũng như trong cuộc sống và trong môi trường làm việc sau này của các bạn.Hình thức đào tạo cùng môi trường học tập trong trường giúp các bạn sinh viên rất nhiều trong việc học tập và rèn luyện những kỹ năng mềm cần thiết song phần lớn các bạn sinh viên đang học ở trường luôn nhận thấy bản thân còn rất thiếu và yếu những kỹ năng mềm cần thiết. Nguyên nhân của những nhận thức đó một phần do các bạn sinh viên còn thiếu chủ động trong việc nhận thức cũng như rèn luyện những kỹ năng mềm. 1 Nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng mềm, việc đào tạo, phát triển và rèn luyện kỹ năng mềm cho sinh viên được nhà trường rất chú trọng. Tuy nhiên việc mở các lớp đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên hiện nay ở trường vẫn còn rất hạn chế, phần nhiều chỉ trên góc độ lý thuyết, vì vậy không tạo nên được niềm say mê và hứng thú của sinh viên trong các khóa học. Dẫn đến việc hiện nay với nhiều bạn sinh viên, kỹ năng mềm vẫn còn là một thuật ngữ khá xa lạ. Do vậy các bạn chưa có định hướng đúng đắn cho việc phát triển và hoàn thiện kỹ năng mềm. Từ ý kiến chủ quan của của những người nghiên cứu đề tài nhận thấy : việc nghiên cứu và tìm ra giải pháp để hoàn thiện và nâng cao kỹ năng mềm cho sinh viên là một vấn đề rất cần thiết, không chỉ sinh viên Thương Mại nói riêng mà còn mang ý nghĩa với sinh viên các trường nói chung. Xuất phát từ lý do trên, nhóm nghiên cứu nhận thấy cần thiết phải nghiên cứu đề tài này 1.2. XÁC LẬP VÀ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ TRONG ĐỀ TÀI Từ tính cấp thiết của đề tài, nhóm nghiên cứu quyết định nghiên cứu về “giải pháp nhằm tăng cường thực hành kỹ năng mềm cho sinh viên Thương Mại”. Nhóm nghiên cứu sẽ thực hiện làm sáng tỏ: các kỹ năng mềm cần thiết phục vụ trong cuộc sống, học tập cũng như trong công việc sau này của các sinh viên. Các kỹ năng (điểm mạnh) mà sinh viên TM có và các kỹ năng mà sinh viên TM còn thiếu và từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện kỹ năng mềm cho sinh viên ĐHTM. 1.3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Nhóm nghiên cứu thực hiện đề tài này nhằm đạt được các mục tiêu sau: Thứ nhất: nhận thức về tầm quan trọng của kỹ năng mềm trong cuộc sống, trong học tập cũng như trong môi trường làm việc sau này của các bạn sinh viên. Thứ hai: Phân tích và đánh giá thực trạng việc phát triển kỹ năng mềm của sinh viên Thương Mại hiện nay. Cuối cùng đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần tăng cường thực hành kỹ năng mềm cho sinh viên Thương Mại. 2 1.4. CÁC CÂU HỎI ĐẶT RA TRONG NGHIÊN CỨU Trong khi nghiên cứu đề tài này có một số câu hỏi đặt ra cần giải quyết đó là: Về mặt lý thuyết: Khái niệm kỹ năng, khái niệm kỹ năng mềm? Về mặt thực tiễn: kỹ năng mềm cần thiết như thế nào đối với sinh viên và đối với nhà tuyển dụng? Những kỹ năng mềm cần thiết với mỗi sinh viên? Thực trạng việc rèn luyện và phát triển kỹ năng mềm của sinh viên Thương Mại trong thời gian qua? Liệu những kỹ năng mềm mà sinh viên Thương Mại hiện có đã đủ để giúp sinh viên TM tự tin trong học tập, cuộc sống và trong môi trường làm việc sau này? Giải pháp nhằm tăng cường thực hành kỹ năng mềm cho sinh viên TM hiện nay là gì? 1.5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU. Về mặt không gian: chúng tôi tập trung nghiên cứu tại trường ĐHTM, Phường Mai Dịch-Quận Cầu Giấy-Thành Phố Hà Nội Về mặt thời gian: nghiên cứu kỹ năng mềm hiện có của sinh viên trong năm 2010 và đưa ra giải pháp nâng cao kỹ năng mềm cho sinh viên Thương Mại trong giai đoạn hiện nay. Nội dung nghiên cứu bao gồm: các lý luận về kỹ năng mềm nói chung, thực trạng kỹ năng mềm của sinh viên Thương Mại hiện nay, yêu cầu về những kỹ năng mềm cơ bản mà mỗi sinh viên cần có trong việc học tập, trong cuộc sống và yêu cầu về kỹ năng mềm của các công ty hiện nay, các giải pháp nhằm tăng cường thực hành kỹ năng mềm cho sinh viên Thương Mại. 1.6. Ý NGHĨA CỦA NGHIÊN CỨU Cung cấp cái nhìn tổng thể về những kỹ năng mềm mà sinh viên Thương Mại hiện có và những yêu cầu về kỹ năng mềm cần có của mỗi sinh viên để thành công hơn trong cuộc sống, học tập cũng như trong môi trường làm việc sau này. Đưa ra giải pháp giúp sinh viên Thương Mại định hướng, nâng cao và phát triển các kỹ năng mềm.Ý nghĩa sâu xa cuối cùng đối với những người làm đề tài này là tìm ra phương pháp học tập một cách khoa học, hiệu quả. 3 CHƯƠNG II: TÓM LƯỢC MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG MỀM. 2.1. MỘT SỐ ĐỊNH NGHĨA, KHÁI NIỆM CƠ BẢN. 2.1.1. Khái niệm kỹ năng. Kỹ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay công việc nào đó phát sinh trong cuộc sống. Để giải thích nguồn gốc hình thành kỹ năng có lẽ không có cơ sở lý thuyết nào tốt hơn 2 lý thuyết về phản xạ có điều kiện (được hình thành trong thực tế cuộc sống của cá nhân) và phản xạ không điều kiện (là những phản xạ bẩm sinh mà cá nhân sinh ra đã sẵn có). Trong đó, kỹ năng của cá nhân gần như thuộc về cái gọi là phản xạ có điều kiện, nghĩa là kỹ năng được hình thành từ khi một cá nhân sinh ra, trưởng thành và tham gia hoạt động thực tế cuộc sống. Ví dụ: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng quản trị chỉ được hình thành trong hoạt động công việc của một cá nhân. Bản thân chúng ta sinh ra chưa có kỹ năng về một khía cụ thể nào (trừ kỹ năng bẩm sinh) nhất là kỹ năng công việc, đó là lý do hình thành hệ thống đào tạo nghề nghiệp hiện có ở bất kỳ quốc gia nào. Như vậy, đa số kỹ năng mà chúng ta có được và hữu ích với cuộc sống của chúng ta là xuất phát từ việc chúng ta được đào tạo. Và như thế, nền tảng của sự thành công của chúng ta trong cuộc sống là do 98 % là do được đào tạo và tự đào tạo rèn luyện kỹ năng, chỉ có 2 % là kỹ năng bẩm sinh tham gia vào sự thành công của chúng ta. Vì sao phải cần có kỹ năng? Khi tham gia vào bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào phục vụ cho cuộc sống của chúng ta đều đòi hỏi chúng ta phải thỏa mãn những kỹ năng tương ứng. Ví dụ: Nghề tư vấn thì tương ứng là nhà tư vấn phải có những kỹ năng tư vấn; nghề luật sư thì phải có kỹ năng hành nghề luật sư. Như thế bất kỳ hoạt động hay nghề nghiệp nào 4 mà chúng ta tham gia thì chúng ta đều phải đáp ứng những kỹ năng mà hoạt động hay nghề nghiệp đó đòi hỏi nếu không chúng ta không thể tham gia cuộc chơi. Có những loại kỹ năng nào? Có người đã phân loại kỹ năng thành 2 loại cơ bản là kỹ năng cứng và kỹ năng mềm. Kỹ năng cứng là kỹ năng mà chúng ta có được do được đào tạo từ nhà trường hoặc tự học, đây là kỹ năng có tính nền tảng. Loại thứ 2 là kỹ năng mềm là loại kỹ năng mà chúng ta có được từ hoạt động thực tế cuộc sống hoặc thực tế nghề nghiệp. Kỹ năng mềm là loại kỹ năng cực kỳ phong phú và không kém phần quan trọng như kỹ năng cứng. Kỹ năng mềm có thể là: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán… Để thành công trong cuộc sống, chúng ta phải thỏa mãn cả kỹ năng cứng và kỹ năng mềm; phải vận dụng linh hoạt và phù hợp hai loại kỹ năng cơ bản này trong cuộc sống và công việc. 2.1.2. Khái niệm kỹ năng mềm. Thế nào là những kỹ năng “mềm”? Kỹ năng mềm là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong cuộc sống con người như: kỹ năng sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, thư giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và đổi mới... Kỹ năng mềm là hành vi ứng xử của mỗi con người, cách thức tương tác với bạn bè, đồng nghiệp, cách làm việc nhóm. Bên cạnh tầm hiểu biết và chuyên môn, kỹ năng mềm cũng là nhân tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng đến quyết định tuyển dụng của doanh nghiệp. Kỹ năng này thể hiện cách sống, cách tích lũy kinh nghiệm từ cuộc sống và trong xã hội hiện đại, đây được xem là chìa khóa vàng dẫn đến thành công. Kỹ năng “mềm” chủ yếu là những kỹ năng thuộc về tính cách con người, không mang tính chuyên môn, không thể sờ nắm, không phải là kỹ năng cá tính đặc biệt, chúng quyết định khả năng bạn có thể trở thành nhà lãnh đạo, thính giả, nhà thương thuyết hay người hòa giải xung đột. Những kỹ năng “cứng” ở nghĩa trái ngược thường xuất hiện trên bản lý lịch - khả năng học vấn của bạn, kinh nghiệm và sự thành thạo về chuyên môn. Bạn có phải là một người dễ chịu? Tận tâm? Bạn giao tiếp có ấn tượng không? Giải quyết các vấn đề có hiệu quả không? Đây chính là các dạng câu hỏi ưa dùng để xác định được mức độ kỹ năng “mềm” của bạn. 5 Yêu cầu về kỹ năng mềm của doanh nghiệp: Những nhà tuyển dụng rất coi trọng các kỹ năng “mềm”, bởi vì các nghiên cứu cho thấy chúng là một nhân tố đánh giá rất hiệu quả bên cạnh những kỹ năng công việc truyền thống hay còn gọi là kỹ năng “cứng”. Một cuộc nghiên cứu mới đây cho thấy những tiêu chuẩn để đánh giá con người như sự tận tâm, tính dễ chịu cũng là những nhân tố dự báo quan trọng đối với sự thành công trong nghề nghiệp giống như khả năng về nhận thức và kinh nghiệm làm việc. Dựa trên kết quả nghiên cứu về “Yêu cầu của nhà tuyển dụng về những kỹ năng đối với sinh viên mới tốt nghiệp các ngành quản lý – kinh tế : Ứng dụng phương pháp phân tích nội dung “ của TS. Vũ Thế Dũng –Trần Thanh Tòng(Khoa Quản Lý Công Nghiệp – Đại Học Bách Khoa Tp.HCM), nghiên cứu chỉ ra rằng : Bảng 1: Yêu cầu về kỹ năng đối với sinh viên mới tốt nghiệp phân theo hình thức sở hữu, ngành, và vị trí tuyển dụng Theo hình thức sở hữu Theo vị trí tuyển dụng Sản Tiếp thị Hành xuất – kinh chính Kế toán Cổ Sản Dịch chất doanh – – – tài phần xuất vụ lượng Chăm nhân chính – mua sóckhách sự hàng hàng 68% 53% 47% 25% 76% 80% 62% 68% 36% 46% 28% 31% 80% 57% 23% 30% 81% 74% 53% 33% 79% 60% 52% 30% 79% 74% 24% 24% Ngành Stt Kỹ năng Toàn mẫu Nước ngoài TNHH Liên Doanh 1 2 3 4 Nhóm 1: Cơ bản Ngoại ngữ Tin họcvăn phòng Giao tiếp Làm việc độclập Nhóm 2: Giá trị gia 78% 65% 42% 30% 91% 68% 38% 32% 69% 68% 42% 30% 89% 70% 44% 30% tăng 5 Tổ chức 6 Quản Lý 7 Phân tích 8 Làm việcnhóm 9 Tin họcchuyên ngành 10 Truyềnthông 11 Hoạchđịnh 12 Đàm phán Nhóm 3: Nhà lãnh 19% 19% 18% 15% 14% 14% 13% 13% 19% 19% 18% 18% 21% 9% 9% 18% 25% 19% 11% 8% 13% 13% 13% 6% 11% 19% 22% 30% 4% 15% 15% 11% 10% 17% 27% 15% 10% 22% 17% 17% 16% 21% 27% 11% 14% 21% 13% 17% 19% 11% 10% 17% 9% 15% 11% 14% 23% 37% 17% 22% 20% 12% 12% 14% 29% 14% 4% 17% 6% 17% 14% 7% 13% 13% 25% 10% 7% 18% 13% 25% 10% 17% 24% 17% 40% 14% 10% 2% 6 đạo tương lai 13 Tổng hợp 9% 14 Lãnh đạo 5% Xây dựngvà phát triển 15 5% quan hệ Tổ chứcnguồn nhân 16 4% lực 17 Ra quyếtđịnh 3% Số kỹ năng trung bình trên một vị trí tuyển 3.63 dụng 5% 3% 5% 1% 3% 3.82 6% 6% 6% 8% 4% 3.45 7% 0% 0% 0% 0% 3.70 24% 8% 11% 7% 8% 5% 5% 7% 3% 5% 5% 2% 5% 3% 2% 2% 4% 3.67 3.4 3.8 3% 0% 2% 3.8 4% 4% 4% 10% 3% 3.8 16% 3% 9% 0% 4% 3.5 5% 2% 2% 0% 2% 3.5 Ta có thể nhận thấy các lĩnh vực khác nhau thì yêu cầu về các kỹ năng khác nhau. yêu cầu của các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ cao hơn hẳn so với các doanh nghiệp trong lĩnh vự sản xuất. Và từ bảng kết quả trên, ta có thể nhận thấy rằng các kỹ năng mềm như: kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, làm việc độc lập… là tiêu chí đánh giá của các nhà tuyển dụng. 2.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA KỸ NĂNG MỀM VỚI SINH VIÊN 2.2.1. Tầm quan trọng a. Trong cuộc sống Giao tiếp xã hội giữa con người và con người đã góp phần tạo nên những truyền thống, nghi thức, quy tắc đạo đức, giá trị, chuẩn mực xã hội, và cả luật pháp. Tất cả cùng nhau tạo nên những nền tảng của xã hội loài người. Có thể nói giao tiếp xã hội là một trong những thuộc tính đặc biệt và duy nhất giúp loài người khác biệt so với các sinh vật khác. Đó là sự tương tác giữa con người với con người với một cá nhân, tập thể, một cộng đồng. Có thể nói con người không thể sống mà thiếu đi sợi dây liên kết với xung quanh. Ngày nay khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc tạo ra sự kết nối ngày càng mở rộng. Điều đó làm cho sự tương tác của con người với con người không chỉ theo chiều rộng mà còn phát triển theo cả chiều sâu. Do đó ngoài các kỹ năng giao tiếp con người còn phải chuẩn bị cho mình rất nhiều kỹ năng như: kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng học và tự học, kỹ năng lãnh đạo bản thân…..Kỹ năng mềm cần thiết cho tất cả mọi người từ nam đến nữ, người già người trẻ , cho dù bạn vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường hay bạn đã đi làm . 7 Với các bạn sinh viên, việc học tập trau dồi kỹ năng mềm lại càng quan trọng . Khi trở thành sinh viên, môi trường thay đổi . Khi còn là một học sinh , chúng ta chỉ biết học thế nào cho giỏi , để đậu vào đại học . Được bố mẹ lo lắng chu đáo cho từng cái ăn cái mặc, cho nên chúng ta cũng không mấy quan tâm đến thế giới bên ngoài . Nhưng khi trở thành một sinh viên lại khác , chúng ta phải tự học , làm quen với cuộc sống tự lập , nhất là các bạn sinh viên đi học xa nhà . Sinh viên phải làm quen với cuộc sống mới , với những con người mới đến từ các vùng miền khác nhau . Không chỉ làm quen với cuộc sống mới mà các bạn còn phải làm quen với phương pháp học tập mới. Nếu như các bạn vẫn áp dụng phương pháp học tập như phổ thông đến lớp nghe thầy cô giáo giảng, ghi chép bài, và chỉ học tập và làm bài theo đúng những yêu cầu của thầy cô giáo đưa ra, không có bất kỳ sự sáng tạo nào khác trong học tập thì việc học như vậy ở đại học của bạn sẽ không mang lại cho bạn kết quả học tập cao như bạn mong muốn. Để đạt được kết quả học tập cao trong trường đại học ngoài việc lắng nghe thầy cô giáo giảng, tiếp thu ý kiến của thầy cô, bạn còn cần phải tự mình nghiên cứu những tài liệu liên quan đến học tập, bạn cần phải sáng tạo trong học tập. Môi trường học đại học yêu cầu bạn không chỉ tiếp thu ý kiến từ phía thầy cô mà bạn cần phải nêu lên ý kiến của chính bản thân mình, điều này yêu cầu bạn cần tự tin trong giao tiếp. Hơn thế nữa hiện nay rất nhiều trường đại học đào tạo theo hình thức tín chỉ yêu cầu kỹ năng học và tự học ở sinh viên với những buổi thuyết trình cũng như phản biện rất sôi nổi và bổ ích trên lớp.Vậy nếu như bạn không tự tin, không trau dồi kỹ năng thuyết trình, làm việc nhóm, mạnh dạn nói trước đám đông cũng như kỹ năng học tập bạn có thể đạt được kết quả tốt không. Tại Việt Nam, trong nhiều năm gần đây bộ GD-ĐT đã nhiều lần lên tiếng đề cập đến kỹ năng mềm cũng như tầm quan trọng của kỹ năng mềm. Ta có thể nhận thấy điều đó qua việc đại học Quốc Gia đưa ra yêu cầu phải có chứng chỉ kỹ năng mềm. Chứng chỉ kỹ năng mềm là một trong các điều kiện để được công nhận tốt nghiệp và cấp bằng. Chứng chỉ kỹ năng mềm có thể sẽ trở thành điều kiện để công nhận tốt nghiệp cho sinh viên các trường sau này.Việc được trang bị kỹ năng mềm đầy đủ và sớm sẽ giúp sinh viên nhanh chóng thích ứng , hòa nhập môi trường học tập, lao động. Việc trang bị kỹ năng mềm càng sớm càng có lợi cho sinh viên, vì khi đó sinh viên có được động lực, sự tự tin, lý tưởng để theo đuổi ngành nghề, có phương 8 pháp để làm việc nhanh chóng, có khoa học… Sinh viên biết tạo cho mình những điều kiện thuận lợi để hỗ trợ phát triển năng lực ngành nghề (như có khả năng giao tiếp để trao đổi chuyên môn cùng bạn bè, trao đổi chuyên môn với giảng viên chuyên ngành… b.Trong môi trường làm việc sau này. Kỹ năng mềm đóng vai trò chất xúc tác quan trọng giúp cá nhân trang bị những phương pháp làm việc có khoa học, nhanh chóng. Người đã được trang bị kỹ năng mềm biết phương pháp tự tạo cho bản thân điều kiện thuận lợi, những cơ hội để phát triển năng lực chuyên môn, và hòa nhập môi trường làm việc sản xuất một cách nhanh chóng và thuận lợi Trong quá trình tuyển dụng: Hầu hết các nhà quản lý và nhà tuyển dụng đều than phiền nhân viên trẻ thiếu và rất yếu về kỹ năng mềm, đa số không đáp ứng được yêu cầu công việc dù họ có bằng cấp rất tốt. Một nghiên cứu khác của L&A cho thấy, khoảng 70% sinh viên ra trường khó xin việc vì không có kinh nghiệm và thiếu các kỹ năng cần thiết. Cơ hội tìm được công việc thích hợp, lương cao, môi trường tốt ở các công ty lớn hay tập đoàn nước ngoài là khá xa vời. Ở các công ty, tập đoàn có bề dày hoạt động lâu năm và tổ chức hoàn chỉnh, việc một nhân viên thiếu kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, nói chuyện trước đám đông, kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng làm chủ bản thân…là hạn chế khiến họ khó có thể hòa đồng và tồn tại lâu. Ví dụ: Intel từng thất vọng khi tuyển 2.000 nhân viên cho dự án đầu tư vào Việt Nam nhưng chỉ có 40 ứng viên đủ trình độ kiến thức lẫn kỹ năng mềm. 40 ứng viên này không dễ tuyển vì các ứng viên hầu như không nhận thức được thế mạnh bản thân, hoặc biết nhưng không thể hiện được khả năng nổi trội của mình và thường bối rối khi nói về bản thân. Một ví dụ khác: Trong một buổi phỏng vấn tuyển dụng vào công ty A, đang trao đổi về nghiệp vụ kinh doanh, nhà tuyển dụng bỗng bất ngờ hỏi câu hỏi chẳng ăn nhập gì với công việc đang tuyển, ví dụ: “Theo em, khi phi một con dao vừa dùng để phết bơ thì mặt nào sẽ tiếp đất, mặt phết bơ hay không phết bơ?”. 9 Thật ra, ý đồ của các nhà tuyển dụng qua những câu hỏi “vu vơ” là nhằm kiểm tra kỹ năng mềm của các ứng viên. Sẽ không có đáp án cụ thể nào cho câu hỏi này mà ứng viên phải thuyết phục được nhà tuyển dụng tin vào đáp án của mình. “Chính vì vậy, việc học và đào tạo kỹ năng mềm cần được xem là vấn đề được quan tâm đặc biệt”, ông Đức lưu ý. Từ các ví dụ trên ta có thể thấy thực trạng tuyển dụng hiện nay các doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến bằng cấp,kỹ năng chuyên môn của các ứng viên mà kỹ năng mềm là một yếu tố quan trọng tác động đến quyết định tuyển dụng của doanh nghiệp. Khi đi làm: Để có một công việc làm và giữ được việc làm đó, tất yếu bạn phải được đào tạo đủ kỹ năng chuyên môn đáp ứng các yêu cầu tối thiểu của vị trí công việc. Nha sỹ phải biết hàn răng sâu. Thư ký phải biết đánh máy trên 100 từ một phút. Kế toán dứt khoát phải biết tính toán số liệu, định khoản và lập bảng cân đổi. Vậy thì, nếu chuyên môn của các Nha sỹ đều như nhau, bạn sẽ chọn Nha sỹ nào để đến chăm sóc răng mình đây? Chắc phải là Nha sỹ nào đó tính tình dễ chịu, trả lời chu đáo các câu hỏi của bạn chứ không phải người đối xử với bạn như một con số trong một hàng dài dãy những cái miệng được đánh số đúng không? Bạn sẽ chọn thư ký nào khi quỹ thời gian của mình eo hẹp? ngươi thư ký có thái độ tích cực, trách nhiệm và là người luôn sẵn sàng giúp đỡ; hay là người cứng nhắc, một người ít khi thừa nhận lỗi lầm của mình? Tương tự như vậy với kế toán. Người có đạo đức nghề nghiệp cao và người biết động viên khuyến khích đồng nghiệp là người sẽ có khả năng thăng tiến trong nghề nghiệp và phát triển trong tổ chức nhất. Trong những tình huống nói trên, và với tất cả mọi người cũng vậy , kỹ năng mềm là rất quan trọng. Trong khi kỹ năng chuyên môn (kỹ năng “cứng”) của bạn chỉ giúp bạn bước chân qua cánh cửa thì kỹ năng con người, kỹ năng mềm của bạn mới là thứ giúp mở ra thêm cho bạn hầu hết các cánh cửa phía trước. Đạo đức nghề nghiệp, thái độ đối với công việc, kỹ năng giao tiếp, trí tuệ tình cảm và đức tính, giá trị cá nhân khác là những kỹ năng mềm không thể thiếu để bạn phát triển nghề nghiệp. Với các kỹ năng 10 mềm, bạn có thể phát triển thành một người lãnh đạo. Giải quyết vấn đề, phân quyền, xây dựng đội nhóm sẽ dễ dàng hơn cho bạn nếu bạn có kỹ năng mềm tốt. Làm thế nào để hài hòa với mọi người và thể hiện một thái độ tích cực đó là điều cốt lõi cho thành công của bạn. Khoảng trống kỹ năng: Khi lực lượng lao động của công ty có rất nhiều kỹ năng chuyên môn nhưng lại thiếu các kỹ năng mềm, như vậy là có khoảng trống. Các kỹ năng mềm đồng hành cùng các kỹ năng cứng và chính nó giúp cho các kỹ năng cững được phát huy đến hết mức. Chẳng hạn nếu bạn rất giỏi kiếm khách hàng, nhưng lại không giỏi để giữ họ, vậy là có khoảng trống kỹ năng. Nếu công ty bạn có tỷ lệ nhân viên bỏ việc cao trong khi lại phải giữ những người đã quen việc, chắc chắn đó là có khoảng cách kỹ năng. Khi bạn có rất nhiều nhà quản lý nhưng lại không có những người lãnh đạo đúng nghĩa – đó chính là khoảng trống kỹ năng mềm. Trên thực tế, bất kỳ khi nào bạn không thể vốn hóa các kiến thức, kinh nghiệm và tay nghề trong nhóm, trong tổ chức thì bạn phải đánh giá lại mức độ giao tiếp và các kỹ năng quan hệ con người (interpersonal skills) đang có trong tổ chức của mình. Môi trường tổ chức làm việc đã tạo ra những động lực về kỹ năng quan hệ con người mà chúng ta không thể xem nhẹ. Hành động lắng nghe, trình bày ý tưởng, giải quyết mâu thuẫn và thúc đẩy một môi trường làm việc cởi mở và trung thực tất cả đều nằm ở chỗ làm thế nào để giữ được mối quan hệ giữa con người với nhau. Đó là những mối quan hệ cho phép người ta tham gia một cách đầy đủ vào các dự án, đề án của nhóm, thể hiện sự tôn trọng và đánh giá cao người khác và sẵn sàng giúp đỡ nhau trong công việc. Là một người quản lý, bạn càng phải nhận thức được vai trò kỹ năng mềm quan trọng thế nào trong đội nhóm, trong tổ chức của mình và bạn không chỉ phải phát triển các kỹ năng đó cho riêng mình mà phải cả trong tổ chức. Những lĩnh vực kỹ năng bạn cần quan tâm là: Trách nhiệm giải trình của cá nhân. Mức độ hợp tác. Kỹ năng đàm phán cá nhân 11 Giải quyết mâu thuẫn. Khả năng thích ứng và linh hoạt. Truyền đạt giao tiếp rõ ràng. Suy nghĩ sáng tạo Huấn luyện và kèm việc. Bạn càng thấy nhiều những cái đó xung quanh mình có nghĩa là kỹ năng mềm của con người đang có và đang phát huy tác dụng trong tổ chức của bạn. Những kỹ năng này sẽ có tác động lớn đến thái độ mà một người sẽ thể hiện ra trong giao tiếp với đồng nghiệp, khách hàng, người quản lý giám sát cũng như với các đối tác liên quan đến tổ chức. Thái độ của một người tích cực bao nhiêu, mối quan hệ cá nhân của người đó tốt bấy nhiêu. Điều này sẽ thúc đẩy mãnh liệt hiệu quả đội nhóm và nhờ đó nó định hướng dẫn dắt các cá nhân đóng góp mạnh mẽ hơn vào tầm nhìn, chiến lược của tổ chức. Kỹ năng mềm đang ngày càng quan trọng như kỹ năng cứng trong lực lượng lao động ngày nay. Chỉ thuần túy được đào tạo tốt về kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn là chưa đủ nếu không được phát triển các kỹ năng mềm, kỹ năng quan hệ con người, xây dựng đội nhóm giúp người ta giao tiếp, tương tác và hợp tác với nhau hiệu quả hơn. Những kỹ năng con người này đang trở nên thiết yếu hơn bao giờ hết với các tổ chức trong bối cảnh phải tìm ra các cách có ý nghĩa để duy trì sức cạnh tranh và năng suất lao động. Mỗi kỹ năng mềm đều thiết yếu đối với sự phát triển cá nhân cũng như thành công của tổ chức, phát triển chúng đóng một vai trò quan trọng và thực sự rất cần thiết. 2.2.2. Các kỹ năng mềm cần thiết. Kỹ năng năng mềm cần thiết cho mỗi con người để thành công trong công việc và cuộc sống? Tại Mỹ, Bộ Lao động Mỹ (The U.S. Department of Labor) cùng Hiệp hội Đào tạo và Phát triển Mỹ (The American Society of Training and Development) gần đây đã thực hiện một cuộc nghiên cứu về các kỹ năng cơ bản trong công việc. Kết luận được đưa ra là có 13 kỹ năng cơ bản cần thiết để thành công trong công việc: 12 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. skills) 8. Kỹ năng học và tự học (learning to learn) Kỹ năng lắng nghe (Listening skills) Kỹ năng thuyết trình (Oral communication skills) Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills) Kỹ năng tư duy sáng tạo (Creative thinking skills) Kỹ năng quản lý bản thân và tinh thần tự tôn (Self esteem) Kỹ năng đặt mục tiêu/ tạo động lực làm việc (Goal setting/ motivation Kỹ năng phát triển cá nhân và sự nghiệp (Personal and career development skills) 9. Kỹ năng giao tiếp ứng xử và tạo lập quan hệ (Interpersonal skills) 10. Kỹ năng làm việc đồng đội (Teamwork) 11. Kỹ năng đàm phán (Negotiation skills) 12. Kỹ năng tổ chức công việc hiệu quả (Organizational effectiveness) 13. Kỹ năng lãnh đạo bản thân (Leadership skills) Năm 1989, Bộ Lao động Mỹ cũng đã thành lập một Ủy ban Thư ký về Rèn luyện các Kỹ năng Cần thiết (The Secretary’s Commission on Achieving Necessary Skills - SCANS). Thành viên của ủy ban này đến từ nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, kinh doanh, doanh nhân, người lao động, công chức… nhằm mục đích “thúc đẩy nền kinh tế bằng nguồn lao động kỹ năng cao và công việc thu nhập cao”. (http://wdr.doleta.gov/SCANS/) Tại Úc, Hội đồng Kinh doanh Úc (The Business Council of Australia - BCA) và Phòng thương mại và công nghiệp Úc (the Australian Chamber of Commerce and Industry - ACCI) với sự bảo trợ của Bộ Giáo dục, Đào tạo và Khoa học (the Department of Education, Science and Training - DEST) và Hội đồng giáo dục quốc gia Úc (the Australian National Training Authority - ANTA) đã xuất bản cuốn “Kỹ 13 năng hành nghề cho tương lai” (năm 2002). Cuốn sách cho thấy các kỹ năng và kiến thức mà người sử dụng lao động yêu cầu bắt buộc phải có. Kỹ năng hành nghề (employability skills) là các kỹ năng cần thiết không chỉ để có được việc làm mà còn để tiến bộ trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng cá nhân và đóng góp vào định hướng chiến lược của tổ chức. Các kỹ năng hành nghề bao gồm có 8 kỹ năng như sau: 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. Kỹ năng giao tiếp (Communication skills) Kỹ năng làm việc đồng đội (Teamwork skills) Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills) Kỹ năng sáng tạo và mạo hiểm (Initiative and enterprise skills) Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc (Planning and organising skills) Kỹ năng quản lý bản thân (Self-management skills) Kỹ năng học tập (Learning skills) Kỹ năng công nghệ (Technology skills) (Nguồn:http://www.acci.asn.au/text_files/issues_papers/Employ_Educ/ee21.pdf) Chính phủ Canada cũng có một bộ phụ trách về việc phát triển kỹ năng cho người lao động. Bộ Phát triển Nguồn Nhân lực và Kỹ năng Canada (Human Resources and Skills Development Canada - HRSDC) có nhiệm vụ xây dựng nguồn nhân lực mạnh và có năng lực cạnh tranh, giúp người Canada nâng cao năng lực ra quyết định và năng suất làm việc để nâng cao chất lượng cuộc sống. Bộ này cũng có những nghiên cứu để đưa ra danh sách các kỹ năng cần thiết đối với người lao động. Conference Board of Canada là một tổ chức phi lợi nhuận của Canada dành riêng cho nghiên cứu và phân tích các xu hướng kinh tế, cũng như năng lực hoạt động các tổ chức và các vấn đề chính sách công cộng. Tổ chức này cũng đã có nghiên cứu và đưa ra danh sách các kỹ năng hành nghề cho thế kỷ 21 (Employability Skills 2000+) bao gồm các kỹ năng như: 1. 2. Kỹ năng giao tiếp (Communication) Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving) 14 3. 4. 5. 6. Kỹ năng tư duy và hành vi tích cực (Positive attitudes and behaviours) Kỹ năng thích ứng (Adaptability) Kỹ năng làm việc với con người (Working with others) Kỹ năng nghiên cứu khoa học, công nghệ và toán (Science, technology and mathematics skills) (Nguồn: http://www.dest.gov.au/NR/rdonlyres/4E332FD9-B268-443D-866C621D02265C3A/2212/final_report.pdf) Chính phủ Anh cũng có cơ quan chuyên trách về phát triển kỹ năng cho người lao động. Bộ Đổi mới, Đại học và Kỹ năng được chính chủ thành lập từ ngày 28/6/2007, đến tháng 6/2009 thì được ghép với Bộ Kinh tế, Doanh nghiệp và Đổi mới Pháp chế để tạo nên bộ mới là Bộ Kinh tế, Đổi mới và Kỹ năng. Bộ này chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến việc học tập của người lớn, một phần của giáo dục nâng cao, kỹ năng, khoa học và đổi mới. (Nguồn: http://www.dius.gov.uk/). Cơ quan chứng nhận chương trình và tiêu chuẩn (Qualification and Curriculum Authority) cũng đưa ra danh sách các kỹ năng quan trọng bao gồm: 1. 2. 3. Kỹ năng tính toán (Application of number) Kỹ năng giao tiếp (Communication) Kỹ năng tự học và nâng cao năng lực cá nhân (Improving own learning and performance) 4. Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (Information and communication technology) 5. 6. Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving) Kỹ năng làm việc với con người (Working with others) Chính phủ Singapore có Cục phát triển lao động WDA (Workforce Development Agency) WDA đã thiết lập hệ thống các kỹ năng hành nghề ESS (Singapore Employability Skills System) gồm 10 kỹ năng (http://wsq.wda.gov.sg/GenericSkills/): 1. Kỹ năng công sở và tính toán (Workplace literacy & numeracy) 15 2. Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (Information & communications technology) 3. making) 4. 5. management) 6. 7. 8. 9. Kỹ năng học tập suốt đời (Lifelong learning) Kỹ năng tư duy mở toàn cầu (Global mindset) Kỹ năng tự quản lý bản thân (Self-management) Kỹ năng tổ chức công việc (Workplace-related life skills) Kỹ năng sáng tạo và mạo hiểm (Initiative & enterprise) Kỹ năng giao tiếp và quản lý quan hệ (Communication & relationship Kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định (Problem solving & decision 10. Kỹ năng an toàn lao động và vệ sinh sức khỏe (Health & workplace safety). Ở VN, các kỹ năng chưa được chú trọng trong hệ thống giáo dục cũng như trong cuộc sống. Hình như nền giáo dục của chúng ta đang dựa trên một giả định “người ta biết thì người ta sẽ làm được”. Và vì vậy họ cứ cố dạy cho học sinh, sinh viên thật nhiều kiến thức hòng làm được việc khi ra trường. Nhưng thực tế đâu có vậy, từ biết đến hiểu là một khoảng cách rất xa, và từ hiểu đến làm việc chuyên nghiệp với năng suất cao là một khoảng cách còn xa hơn nữa. Điều này dẫn đến một thực trạng là sinh viên khi ra trường biết nhiều kiến thức nhưng lại không có khả năng làm việc cụ thể. Chỉ vài năm gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng mới nhắc nhiều đến cụm từ “kỹ năng” và “kỹ năng mềm”. Chúng ta tự hào về nguồn lao động dồi dào. Nhưng đó mới chỉ là số lượng. Chất lượng lao động mới là vấn đề đáng bàn. Theo bà Nguyễn Thị Hằng (nguyên Bộ trưởng Bộ Lao Động, Thương Binh & Xã Hội, Chủ tịch hội dạy nghề Việt Nam), hiện nay, Việt Nam còn đến hơn 50% lao động trong tổng số hơn 10 triệu lao động chưa qua đào tạo cơ bản chính quy, mà chủ yếu là vừa học vừa làm hoặc làm những công việc đơn giản. Điều đó cho chúng ta thấy bức tranh tổng thể về kỹ năng nghề nghiệp của lực lượng lao động không có gì là sáng sủa cho lắm và còn nhiều việc phải làm để có một bức tranh tươi sáng hơn. Điều tối thiểu 16 phải biết (nhưng lại không phải ai cũng biết), là xã hội bây giờ sử dụng sản phẩm dùng được, chứ không sử dụng khả năng hay bằng cấp của con người. Bạn không có kỹ năng đánh máy, thì có thuộc lòng 10 quyển sách về Microsoft Office cũng vô nghĩa. Bạn không thiết kế nổi một cái nhà bình thường 3 tầng, thì có tốt nghiệp xuất sắc trường Kiến trúc cũng vô nghĩa. Tổng hợp các nghiên cứu của các nước và thực tế Việt Nam, dưới góc độ của người nghiên cứu đề tài thấy rằng 10 kỹ năng sau là căn bản và quan trọng hàng đầu cho người lao động trong thời đại ngày nay: 1. 2. Kỹ năng học và tự học (Learning to learn) Kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân (Self leadership & Personal branding) 3. 4. skills) 5. 6. 7. 8. 9. Kỹ năng lắng nghe (Listening skills) Kỹ năng thuyết trình (Presentation skills) Kỹ năng giao tiếp và ứng xử (Interpersonal skills) Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills) Kỹ năng làm việc đồng đội (Teamwork) Kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo hiểm (Initiative and enterprise skills) Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc (Planning and organising 10. Kỹ năng đàm phán (Negotiation skills) Như vậy ngoài những kiến thức chuyên môn, người lao động cần phải được trang bị thêm các kỹ năng hành nghề để đảm bảo có được việc làm mà còn để tiến bộ trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng cá nhân và đóng góp vào định hướng chiến lược của tổ chức góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lâu nay chúng ta chỉ nghĩ đến xuất khẩu lao động, nhưng một thực tế mới đang thách đố người lao động Việt Nam là trong thời kỳ khủng hoảng người nước ngoài đang đến tranh chỗ làm việc của ta. Chúng ta có thể bị thua ngay trên sân nhà. 17 Rõ ràng 10 kỹ năng mềm thiết yếu này không những chỉ giúp người lao động nâng cao năng suất, hiệu quả công việc mà thực chất là giúp ích rất nhiều trong mọi khía cạch cuộc sống ở gia đình ngoài xã hội tại công sở, nâng cao đáng kể chất lượng cuộc sống và văn hóa xã hội, góp phần thay đổi diện mạo con người Việt Nam. (1) Kỹ năng học và tự học Nhẩm tính sơ lược, ở cấp học phổ thông, mỗi học trò phải đọc trên 60 quyển sách. Bốn năm đại học, mỗi sinh viên phải học và đọc trung bình trên 100 quyển sách. Với những con số biểu tượng cho sự khổng lồ của kiến thức trong cuộc đời đi học, mỗi học trò, mỗi con người cần tìm cho mình những công cụ, phương pháp, mà quan trọng nhất là kỹ năng học và tự học để lãnh hội hết những kiến thức chuyên môn dành cho mình. Nhiều sinh viên cho rằng chỉ cần cố gắng học là có thể đạt kết quả tốt, nhưng học ở đại học khác với học ở trung học rất nhiều, và biết cách học có hiệu quả ở đại học là một điều quan trọng mà có khi chưa được chú ý đúng mức. Nếu như các bạn sinh viên vẫn tin rằng chỉ cần chăm chỉ học tập sẽ đạt kết quả tốt thì suy nghĩ đó sẽ làm cho các bạn thất vọng trong học tập. Nếu như các bạn sinh viên vẫn không có sự sáng tạo trong học tập, không có phương pháp học tập hiệu quả cho riêng bản thân mình, các bạn sẽ khó tìm thấy một sự thành công trong học tập cũng như trong cuộc sống. Hệ quả của phương pháp học không tốt sẽ là lãng phí thời gian, thành tích học tập kém, thậm chí thi rớt dẫn đến chán nản, thất vọng và bất mãn. Học đối với sinh viên là cuộc sống, là tương lai. Có một phương pháp học tập tốt và sáng tạo cho chính bản thân mình sẽ là chìa khóa đưa các bạn sinh viên đến với thành công trong con đường học tập một cách nhanh và hiệu quả nhất. (2) Kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân Bạn có muốn sử dụng hình ảnh cá nhân làm công cụ tăng lợi thế cho mình? Bạn có muốn làm tăng thêm hiệu quả của hình ảnh cá nhân trong công ty và sự ảnh hưởng của nó đối với nhân viên của bạn? Hình ảnh cá nhân có thể giúp hoặc có thể gây tác dụng ngược như thế nào? Và làm thế nào để duy trì một hình ảnh đẹp nhằm làm tăng sự tự tin và thành công của bạn? Hình ảnh cá nhân có thể là công cụ hỗ trợ đắc lực nhưng cũng có thể gây ảnh hưởng xấu cho bạn nếu bạn không biết cách sử 18 dụng hiệu quả. Mỗi khi bạn gặp một ai đó, người ta có thể đánh giá vị trí của bạn dựa trên hình thức và thái độ của bạn. Vì vậy, cần thể hiện một hình ảnh chuyên nghiệp của bản thân, nhất là trong những cuộc gặp gỡ đầu tiên “Nhiều bạn lớp mình vẫn ngại ngần không muốn thể hiện mình trong tập thể vì cho rằng nổi bật quá có thể gây khó chịu cho người khác, bị nói xấu hoặc thậm chí tẩy chay” - một sinh viên thổ lộ. Thật ra, việc này chỉ thực sự gây hại khi bạn khoác lác, ngạo mạn hay thể hiện không đúng lúc hay đúng cách, tỏ ra hợm hĩnh. Cần phải biết hài hòa giữa cái “tôi” và cái “ta” trong tập thể, chẳng hạn: thể hiện năng lực của mình nhưng không phỉ báng, chê bai người khác, nhiệt tình giúp đỡ mọi người… Chốt lại, cốt lõi của tạo dựng thương hiệu cá nhân chỉ nằm ở 2 chữ: “Sống đẹp”: miệt mài lao động, có trách nhiệm với bản thân, có cái nhìn tích cực và lạc quan, xây dựng phong cách làm việc chuyên nghiệp, sống hòa đồng với tập thể. Khi đã xây dựng và phát triển được thương hiệu cá nhân cũng là lúc bạn đã có vị thế trong lĩnh vực nghề nghiệp, được nhiều người xem là một tấm gương để vươn đến hoặc thậm chí là đánh bật bạn ra khỏi vị trí của mình. Chính vì vậy, càng được biết đến thì càng nên cẩn trọng và không ngừng phấn đấu. Bạn có thể trở thành người lãnh đạo ở nhiều lĩnh vực, cấp độ khác nhau, nhưng trước hết cần phải lãnh đạo được chính bản thân mình. Lãnh đạo bản thân là tự mình chiến thắng sự yếu kém, buồn chán, cám dỗ... để thực hiện những mục tiêu lâu dài mà mình đã đặt ra. Có bạn cho rằng, để lãnh đạo bản thân, quan trọng nhất là phải rèn được ý chí và quan niệm sống đúng đắn. Bạn khác thì chia sẻ kinh nghiệm: “Chỉ cần đặt ra nguyên tắc sống đúng đắn và tuân thủ theo những nguyên tắc đó thì đã chiến thắng được chính mình”. Lãnh đạo bản thân giúp con người khám phá thế giới bên trong để hiểu mình hơn. Từ những nhận thức đúng đắn về mình sẽ giúp bản thân có thể xây dựng cho mình kế hoạch hành động nhằm đạt được những mục tiêu và ước mơ trong cuộc sống. giúp con người tư duy tích cực hơn để sống tự tin, hạnh phúc và thành đạt. (3) Kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo hiểm Kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo hiểm bao gồm trong nó nhiều kỹ năng. Đầu tiên phải kể tới kĩ năng thường được gọi là "khả năng liên kết". Nó thuộc dạng kĩ năng 19 có được sau quá trình tích lũy kinh nghiệm, cho phép một số người có khả năng sáng tạo hình thành những mối liên kết giữa những câu hỏi, vấn đề hay các ý tưởng dường như chẳng có mối liên quan nào. Kế đến phải kể tới là kĩ năng đặt câu hỏi - những câu hỏi mang tính thách thức tình thế hiện tại và mở ra một bức tranh rộng lớn hơn như "Tình hình sẽ như thế nào nếu...", "Tại sao...", "Tại sao lại không...". Nằm thứ ba trong danh sách này là khả năng nhìn thấu các tiểu tiết, đặc biệt là về hành vi, lối ứng xử của con người. Ngoài ra, khả năng trải nghiệm cũng là một yếu tố cấu thành thiết yếu.Và cuối cùng, những người đột phá thành công thường thực sự giỏi trong việc xây dựng mối quan hệ với những người ít nhiều có nét tương đồng với họ và chắc chắn có gì đó để họ học hỏi. Kết quả tìm kiếm cho thấy 15% các CEO thực sự rất sáng tạo, nói cách khác những người này đều từng cho ra đời một sản phẩm mới hay khởi đầu một vụ đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ dù một người có sáng tạo đến đâu thì họ vẫn thường ít nhiều tỏ ra cẩn trọng trong việc đặt câu hỏi do sợ trông ngốc nghếch hoặc đôi khi chỉ bởi họ biết rằng mọi người không đánh giá cao nó. 80% những người đang ở cương vị điều hành chỉ dành 20% quỹ thời gian để tìm kiếm các sáng kiến mới. Tất nhiên, Apple và Google là những trường hợp ngoại lệ. Nếu nhìn vào một đứa trẻ 4 tuổi, bạn sẽ dễ dàng nhận ra rằng chúng liên tục đặt câu hỏi hoặc trình bày băn khoăn về mọi thứ xung quanh chúng hoạt động ra sao. Nhưng tới thời điểm chúng khoảng sáu tuổi rưỡi, việc đặt câu hỏi có xu hướng dừng lại bởi chúng nhận thức rất nhanh rằng giáo viên thường đánh giá cao câu trả lời đúng hơn là những câu hỏi khiêu khích. Khi vào trung học thì gần như bọn nhỏ không thể hiện tính tò mò của mình nữa. Và đứa trẻ đó khi trưởng thành và ở trong một môi trường tập thể thì dường như niềm kích thích khám phá đã dần dần rời xa chúng. Biết cách và dám suy nghĩ khác người đối với một thành viên trong xã hội có truyền thống văn hóa làng xã lâu đời như người Việt chúng ta là điều không dễ dàng. Tuy nhiên, nếu không dám nghĩ khác thì chúng ta sẽ không bao giờ có được sự sáng tạo, và bạn hoàn toàn yên tâm về khả năng rèn luyện tư duy sáng tạo của mình vì nó rất đơn giản, vấn đề là bạn có vượt qua được chính mình để nghĩ và làm một cách 20 khác hay không mà thôi. Và một điều hết sức hiển nhiên là thành quả của sự sáng tạo dù ở bất kỳ lĩnh vực nào, lúc nào cũng được đánh giá cao Tư duy sáng tạo là chủ đề của một lĩnh vực nghiên cứu còn mới. Nó nhằm tìm ra các phương án, biện pháp thích hợp để kích hoạt khả năng sáng tạo và để tăng cường khả năng tư duy của một cá nhân hay một tập thể cộng đồng làm việc chung về một vấn đề hay lĩnh vực. Ứng dụng chính của bộ môn này là giúp cá nhân hay tập thể thực hành nó tìm ra các phương án, các lời giải từ một phần đến toàn bộ cho các vấn đề nan giải. Các vấn đề này không chỉ giới hạn trong các ngành nghiên cứu về khoa học kỹ thuật mà nó có thể thuộc lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, xã hội, nghệ thuật... hoặc trong các phát minh, sáng chế. Một số phương pháp tư duy sáng tạo đã và đang được triển khai thành các lớp học, các hội nghị chuyên đề ở các cơ quan, tổ chức xã hội, chính trị, chính trị - xã hội nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của cá nhân hay tập thể. Ở các trường trung học của các nước phát triển, một số phương pháp quan trọng như tập kích não, giản đồ ý cũng đã được áp dụng cho học sinh biết cách áp dụng dưới dạng thô sơ; đồng thời cũng đã có nhiều cơ sở giáo dục tư thục giảng dạy các chuyên đề về phương pháp tư duy sáng tạo cho học viên mọi lứa tuổi. (4) Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc Việc nhà, việc cơ quan, xã hội, có quá nhiều việc cần làm và con người hiện đại dường như không đủ thời gian để cân bằng cuộc sống. Ai cũng có hàng núi công việc phải giải quyết nhưng số người cảm thấy hoàn thiện và thoả mãn là rất ít. Không có gì đáng chán hơn cảm giác bạn đã làm việc cật lực nhưng chẳng có gì mà mình thực sự muốn. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do mọi người không có kế hoạch và các quy trình rõ ràng. Thay vì nhận diện các mục tiêu cụ thể, các sự kiện quan trọng và các ước mơ, con người thường trải qua một ngày với các công việc rời rạc và không mấy quan trọng. Ngày kết thúc theo cách nhàm chán và tiêu tốn nhiều năng lượng, đồng thời làm gia tăng cảm giác chán nản, xa rời mục tiêu ban đầu. Vì thế rất ít người đạt được một cuộc sống cân bằng thực sự. Khi được hỏi: “Bạn dự định sau này sẽ làm gì?”, các bạn trẻ thường trả lời: “Tôi sẽ làm chủ một doanh nghiệp, sẽ làm một diễn giả, muốn thành đạt, muốn cống hiến…”. Nhưng đa phần các bạn lại chưa hề có một kế hoạch rành mạch để hiện thực 21 hóa dự định đó. Các bạn đang cần kỹ năng lập kế hoạch. Nguyên nhân của việc không chú ý hoặc không thể xác định được kế hoạch cho mình là do các bạn trẻ thiếu mục tiêu hoặc những mục tiêu ấy là mơ hồ. Khi bạn đã đặt mục tiêu dù ngắn hạn hay dài hạn cho mình như sẽ thành một chủ doanh nghiệp, sẽ là một lập trình viên phần mềm, là nhà nghiên cứu khoa học, nhà hoạt động xã hội … để có thể cống hiến, đóng góp được nhiều cho xã hội thì bạn cần phải có một kế hoạch rành mạch từng bước để thực hiện. Một kế hoạch được chuẩn bị kĩ lưỡng và được cập nhật, chỉnh sửa thường xuyên sẽ giúp bạn có những bước đi cụ thể và đánh giá được chất lượng của các công việc mình làm trên đường thực hiện dự án của mình. Kế hoạch là một tập hợp những hoạt động được sắp xếp theo lịch trình, có thời hạn, nguồn lực, ấn định những mục tiêu cụ thể và xác định biện pháp tốt nhất… để thực hiện một mục tiêu cuối cùng đã được đề ra. Khi bạn lập được kế hoạch thì tư duy quản lý của bạn sẽ có hệ thống hơn để có thể tiên liệu được các tình huống sắp xảy ra. Bạn sẽ phối hợp được mọi nguồn lực của cá nhân, tổ chức để tạo nên một sức mạnh tổng hợp, có thể giữ vững “mũi tiến công” vào mục tiêu cuối cùng mình muốn hướng đến. Bên cạnh đó, bạn cũng sẽ dễ dàng kiểm tra, giám sát hiệu quả thực hiện dự án của mình và sẵn sàng ứng phó với những thay đổi của môi trường bên ngoài. (5) Kỹ năng lắng nghe Không phải ngẫu nhiên mà câu thành ngữ "Nói là bạc, im lặng là vàng, lắng nghe là kim cương" được mọi người công nhận là đúng. Từ bé ta được dạy nói, dạy đọc, dạy viết rất nhiều nhưng kỹ năng nghe chiếm đến 53% thời gian giao tiếp lại không được dạy. Biết lắng nghe - điều này có vẻ đơn giản nhưng không phải ai cũng có thể làm được vì lắng nghe là một hoạt động thường nhật hàng ngày, cho nên chỉ có một số ít người quan tâm tới việc phát triển kỹ năng nghe của mìnhNghe là một khả năng vật lý thì lắng nghe là một kỹ năng. . Kỹ năng nghe cho phép ta cảm nhận và hiểu được những gì người khác nói. Lắng nghe không phải là bản năng mà là nghệ thuật, kỹ năng cần phải rèn luyện lâu dài. Lắng nghe chính là hùng biện nhất song lại ít người biết được điều đó. Trong giao tiếp với nhau chúng ta thường tranh nhau thể hiện mà thật ít người tranh nhau để lắng nghe. Khi ta có kỹ năng lắng nghe tốt thì 22 công việc sẽ thuận lợi hơn, cuộc sống gia đình vui vẻ hơn, giải quyết xung đột dễ dàng hơn. Mục đích của việc lắng nghe là nắm bắt được nội dung vấn đề, thu thập được nhiều thông tin, đánh giá nội dung thông tin và tương tác qua lại trong quá trình diễn đạt. Song song đó, lắng nghe sẽ tạo sự liên kết giữa người với người, đó là liên kết về xúc cảm. Lúc này sự lắng nghe lại có thêm những mục đích mới tích cực về cảm xúc hơn như: tạo ra mối quan hệ tốt đẹp với mọi người, chia sẻ sự cảm thông với người khác và khám phá ra những tính cách mới mẻ của một người đã quen. Ngoài ra, lắng nghe là một biện pháp hữu hiệu để giải quyết xung đột, mâu thuẫn; bằng sự chú tâm và chân thành khi lắng nghe bạn sẽ khiến đối phương cảm thấy được tôn trọng và họ cũng sẽ cởi mở với bạn hơn rồi sau đó những nút thắt của vấn đề sẽ được tháo gỡ một cách nhanh chóng. Những người biết lắng nghe là những người biết tiếp nhận những thông tin mới, những ý kiến mới, vì thế họ sống sáng suốt và thấu hiểu mọi việc xung quanh, thành quả mà họ thu được sẽ là lòng tin của mọi người, khả năng nắm được thông tin, khả năng cập nhật hóa thông tin và khả năng giải quyết được vấn đề. (6) Kỹ năng thuyết trình Trình bày là một phương pháp nhanh và hiệu quả để truyền tải ý tưởng và mong muốn của mình đến người nghe. Trong quản lý bất kỳ dự án nào, thuyết trình được sử dụng như một phương pháp chính thức để đưa mọi người lại với nhau để lập kế hoạch, theo dõi và đánh giá tiến bộ của mình . Kỹ năng thuyết trình và kỹ năng nói trước công chúng là rất hữu ích trong nhiều khía cạnh của công việc và cuộc sống. Thuyết trình hiệu quả và kỹ năng nói trước công chúng rất quan trọng trong kinh doanh, bán hàng, đào tạo, giảng dạy và các chương trình giải trí. Trong công việc cũng như mọi hoạt động khác, kỹ năng thuyết trình đóng một phần quan trọng dẫn đến sự thành công của mỗi cá nhân cũng như tập thể. Với kĩ năng thuyết trình chuyên nghiệp bạn cũng sẽ dễ dàng thuyết phục được mọi đối tác, ban giám khảo dù là khó tính nhất. Nhưng để đạt được điều đó, nắm vững nội dung thuyết trình là chưa đủ, chúng ta cần có sự chuẩn bị tốt không chỉ về mặt nội dung mà còn là cả hình thức. Do đó phần chuẩn bị cho một bài thuyết trình là vô cùng quan 23 trọng. Với sự chuẩn bị tốt, dự trù mọi tình huống có thể xảy ra bạn đã nắm được 70% thành công. (7) Kỹ năng giao tiếp ứng xử Trong cuộc sống, trong giao tiếp hàng ngày con người luôn phải ứng phó với biết bao tình huống, có lúc dễ dàng xử lý, có lúc thật phức tạp, khó xử. Giao tiếp ứng xử quan trọng trong hầu hết các mặt của đời sống con người, ở khắp mọi nơi, mọi chỗ đều cần có kỹ năng giao tiếp. Xã hội càng văn minh thì nhu cầu trong giao tiếp của con người càng cao. Ứng xử một cách thông minh, khôn khéo, tế nhị, kịp thời, có hiệu quả, đạt tới mức độ nghệ thuật, ngày nay còn được coi như bí quyết thành công trong cuộc đời, trong công việc Kỹ năng là thành phần thiết yếu của giao tiếp tốt và tinh tế xã hội, nhưng kỹ năng giao tiếp không tự nhiên mà có được, phải trải qua một quá trình học hỏi và rèn luyện. Người có kỹ năng giao tiếp ứng xử tốt thể hiện ở sự tự tin và mức độ quan tâm đến người khác. Khi các kỹ năng như vậy không có trong cuộc sống cũng như nơi làm việc thì có thể dẫn đến sự cô đơn, thất vọng, hợp tác và dịch vụ không đạt chuẩn. Kỹ năng giao tiếp ứng xử được coi là chất keo vô hình gắn kết các mối quan hệ với nhau. Mục đích của giao tiếp là truyển tải được những thông điệp. Đây là quá trình liên quan đến cả người gửi và người nhận thông điệp. Bằng cách truyền đạt được thông điệp của mình đi một cách thành công, bạn đã truyền đi được suy nghĩ cũng như ý tưởng của mình một cách hiệu quả. Khi không thành công, những suy nghĩ, ý tưởng của bạn sẽ không phản ánh được những cái đó của chính bạn, gây nên sự sụp đổ trong giao tiếp và những rào cản trên con đường đạt tới mục tiêu của bạn - cả trong đời tư và trong sự nghiệp. Kỹ năng giao tiếp cực kì quan trọng và nó là nhân tố thể hiện rõ nhất sự năng động của một sinh viên. Việc tham gia các câu lạc bộ Thanh niên, hoạt động Đoàn thanh niên là điều kiện nâng cao kỹ năng này. Thông thường trong trường Đại học sinh viên thường ứng dụng kỹ năng giao tiếp qua các hoạt động sau: 24 Kỹ năng thuyết trình trước đám đông Kỹ năng truyền đạt thông tin Kỹ năng lắng nghe và thu thập thông tin (8) Kỹ năng giải quyết vấn đề Trong công việc hằng ngày, khi có một vấn đề nào đó xảy ra, chúng ta có khi nào phân vân không biết giải quyết theo hướng nào. Cũng có khi thấy mệt mỏi và bị căng thẳng vì cứ phải gặp những vấn đề lặp đi lặp lại, từ những vụ việc đơn giản đến phức tạp, đó là chúng ta đang thiếu kỹ năng giải quyết vấn đề . Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills) là một trong những kỹ năng rất cần thiết trong học tập và làm việc bởi cuộc sống là một chuỗi những vấn đề đòi hỏi chúng ta phải giải quyết mà không vấn đề nào giống vấn đề nào và cũng không có một công thức chung nào để giải quyết mọi vấn đề. Điều quan trọng là chúng ta phải tự trang bị cho mình những hành trang cần thiết để khi vấn đề nảy sinh thì chúng ta có thể vận dụng những kỹ năng sẵn có để giải quyết vấn đề đó một cách hiệu quả nhất. Giải quyết vấn đề là một cách thức suy nghĩ nhằm làm rõ ràng và đưa ra giải pháp thực thi để cải tiến cho một vấn đề. Nói dễ hiểu hơn giải quyết vấn đề: trả lời những câu hỏi như: "Ta sẽ vượt trở ngại như thế nào?" hay "Tôi sẽ làm như thế nào để đạt mục đích của mình trong những điều kiện này?". Cốt lõi của vấn đề là tìm cách đạt được mục đích khi gặp trở ngại hoặc khi ta chỉ có những điều kiện rất hạn chế để thực hiện mục đích. Biết đâu là vấn đề quan trọng để giải quyết trong vô số hiện tượng phát sinh quanh mình là một kỹ năng hết sức quan trọng. Người thành công không phải là người làm (giải quyết) tất cả công việc phát sinh hay nhìn thấy mà là người biết đâu là việc quan trọng để làm. Làm đúng việc bao giờ cũng đáng giá gấp nhiều lần làm việc đúng, dĩ nhiên làm đúng việc và đúng cách sẽ càng thành công hơn. (9) Kỹ năng làm việc đồng đội “ Những gì chúng ta biết chỉ như giọt nước, những gì chúng ta chưa biết như đại dương mênh mông" - Anhxtanh. 25 Chúng ta không thể biết tất cả và càng không thể làm tất cả. Vì vậy làm việc tập thể là hoạt động không thể thiếu đối với mỗi con người, mỗi tổ chức và xã hội. Lịch sử cho thấy chúng ta làm việc đồng đội rất hiệu quả khi tổ quốc bị xâm lăng. Nhưng trong thế giới hòa bình thì sao? Trong thời đại ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì yêu cầu làm việc theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết. Đơn giản vì không ai là hoàn hảo, làm việc theo nhóm sẽ tập trung những mặt mạnh của từng người và bổ sung cho nhau. Hơn nữa, chẳng ai có thể cáng đáng hết mọi việc. Thế kỷ 21 là thế kỷ của làm việc theo nhóm trong tất cả mọi lĩnh vực. Cho dù đó là kinh tế, kỹ thuật hay văn học, nghệ thuật, bạn không thể thành công và chiến thắng nếu bạn chỉ là một cá nhân. Teamwork – đơn giản là một nhóm người cùng nhau làm việc, hay sâu hơn một chút, là đoàn kết để cùng đạt được một mục tiêu nào đó. Nếu bạn dành thời gian lướt qua những bản tin tuyển dụng ngày nay, trong 10 vị trí đăng tuyển thì đã có đến 9 hay thậm chí cả 10 vị trí đòi hỏi ở ứng viên kỹ năng làm việc nhóm. Bởi nhà tuyển dụng không cần tuyển dụng một quyển sách, hay một cái máy vi tính mà thực chất là một con người có khả năng làm việc, hợp tác, tương tác với những thành viên khác. Có khả năng làm việc nhóm tốt, đơn giản là bạn và mọi người có khả năng cùng nhau làm tốt công việc, đạt được mục tiêu đã đề ra bằng cách hiểu mình, hiểu nhau, làm tốt phần việc của mình và giúp người khác làm tốt việc của họ. Sự tương tác đa chiều trong một nhóm làm việc giúp cho mọi người có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình xuất sắc hơn nhờ giúp đỡ các thành viên khác. Kỹ năng làm việc nhóm là kỹ năng tương tác giữa các thành viên trong một nhóm, nhằm thúc đẩy hiệu quả công việc, phát triển tiềm năng của tất cả các thành viên. Một mục tiêu lớn thường đòi hỏi nhiều người làm việc với nhau, vì thế làm việc nhóm trở thành một định nghĩa quan trọng trong tổ chức cũng như trong cuộc sống. (10) Kỹ năng đàm phán. Trong kinh doanh, doanh nghiệp nào cũng muốn đạt kết quả, lợi nhuận cao nhất. Ðiều đó phụ thuộc rất nhiều ở tài ngoại giao, đàm phán, thương thảo hợp đồng của nhà kinh doanh trên thương trường. Đàm phán là phương tiện cơ bản để đạt được cái mà ta mong muốn từ người khác. Đó là quá trình giao tiếp có đi có lại được thiết 26 kế nhằm thỏa thuận trong khi giữa ta và bên kia có những quyền lợi có thể chia sẻ và có những quyền lợi đối kháng. Đàm phán hay thương lượng là cả một quá trình, nó không đơn giản chỉ là một điều gì đó vừa được thực hiện khi đang thảo luận những điều kiện của một giải pháp. Đàm phán khác xa với việc mặc cả. Nó đòi hỏi sự hiểu biết về động lực hay chức năng, những cái ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình và hành vi ứng xử của mỗi người. Những nhà đàm phán vĩ đại luôn biết đầu tư thời gian để tìm hiểu những chiến lược và sách lược khác nhau và mỗi kỹ năng, kỹ xảo đóng góp như thế nào vào toàn bộ tiến trình đàm phán. 2.3 NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC TĂNG CƯỜNG THỰC HÀNH KỸ NĂNG MỀM CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY 2.3.1. Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của kỹ năng mềm. Bên cạnh sự nhận thức đúng về tầm quan trọng của kỹ năng mềm trong học tập, công việc và cuộc sống của số lượng lớn các bạn sinh viên. Thì hiện nay một phần không nhỏ các bạn sinh viên còn khá xa lạ với cụm từ “kỹ năng mềm”. Khi mong muốn ai làm một việc gì đó chúng ta cần phải nêu ra được lý do tại sao phải làm việc đó và việc đó có ích gì cho họ. Vì vậy để các bạn sinh viên tự có ý thức rèn luyện kỹ năng mềm thì trước tiên cần phải mang đến cho các bạn một sự nhận thức đúng về tầm quan trọng của kỹ năng mềm với cuộc sống của chính các bạn. Nếu bạn cho rằng một điều gì đó là không quan trọng, không cần thiết ít nhất là với chính bản thân bạn thì bạn sẽ không bao giờ lãng phí thời gian để hiểu, học hỏi những điều đó. Cách phản ứng đó là không có gì lạ và hoàn toàn hợp lý nhất là với cuộc sống năng động của các bạn sinh viên thời hội nhập luôn làm những điều mình thích và những điều mà bản thân cho là cần thiết. Vì vậy nếu các bạn sinh viên không có sự nhận thức đúng về tầm quan trọng của kỹ năng mềm, cho rằng kỹ năng mềm là không cần thiết, cho rằng chỉ cần học tập tốt các môn học trên lớp như vậy là đủ để đảm bảo một tương lai tốt đẹp cho cuộc sống của các bạn sau này.Suy nghĩ đó dẫn đến hành động các bạn sẽ không để ý đến những sự kiện, buổi hội thảo có liên quan đến kỹ năng mềm, không tìm tòi, không tích cực tham gia các khóa học cũng như rèn luyện những kỹ năng mềm cần thiết. Từ nhận thức sai về kỹ năng mềm, dẫn đến suy 27 nghĩ rằng kỹ năng mềm không quan trọng và hành động không rèn luyện kỹ năng mềm đã lấy đi nhiều cơ hội đáng lẽ thuộc về các bạn nếu như các bạn có những kỹ năng mềm cần thiết. Khi bạn nhận thức rằng kỹ năng mềm quan trọng với bạn không chỉ trong học tập mà cả trong cuộc sống và môi trường làm việc sau này, bạn sẽ có những suy nghĩ và hành động hướng đến hoàn thiện cho bản thân những kỹ năng mềm cần thiết. Bạn chủ động hơn trong việc tìm hiểu và học hỏi về kỹ năng mềm. Bạn cũng sẽ tích cực tham gia các buổi giao lưu hội thảo về kỹ năng mềm, nhiệt tình say mê trong các môn học và khóa học về kỹ năng mềm đồng thời bạn sẽ không ngừng rèn luyện để giúp bản thân hoàn thiện và nâng cao những kỹ năng mềm cẫn thiết. Từ đó giúp mở ra nhiều cơ hội cho bản thân bạn trong công việc và giúp cuộc sống của bạn tốt đẹp hơn. Do vậy để giúp các bạn sinh viên có định hướng trong việc rèn luyện những kỹ năng mềm công việc quan trọng và được đặt lên hàng đầu đó chính là giúp các bạn có nhận thức đúng về tầm quan trọng của kỹ năng mềm. 2.3.2. Ý thức của sinh viên trong việc rèn luyện kỹ năng mềm. Nhận thức đúng mang đến cho các bạn một định hướng đúng, vạch cho các bạn con đường cụ thể để đạt tới những mục tiêu mà bạn đặt ra. Nhưng nếu không có sự chủ động và nếu bản thân bạn không có được sự quyết tâm thực hiện thì bạn sẽ rất khó đạt được những mục tiêu bạn đặt ra. Với việc rèn luyện kỹ năng mềm của các bạn sinh viên cũng tương tự. Các bạn đã có sự nhận thức đúng về tầm quan trọng của kỹ năng mềm nhưng bạn lại không chủ động trong việc rèn luyện những kỹ năng mềm của bản thân. Nhiều bạn sinh viên mặc dù nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng mềm nhưng với tâm lý ỷ lại, thiếu sự chủ động các bạn đã bỏ qua nhiều cơ hội rèn luyện những kỹ năng mềm. Còn với nhiều bạn đã tham gia những lớp kỹ năng mềm nhưng do thiếu tính sáng tạo áp dụng những kỹ năng đã học vào thực tế cuộc sống các bạn cũng dễ nản và cho rằng mình không có tố chất trong việc rèn luyện những kỹ năng mềm đó. Rèn luyện kỹ năng mềm là một quá trình đi từ lý thuyết đến thực hành và nếu thực sự đam mê với các môn học kỹ năng mềm các bạn sinh viên sẽ nhận ra một điều một khóa học kỹ năng mềm sẽ thực sự bắt đầu khi các bạn kết thúc khóa học đó. Bởi để 28 hoàn thiện những kỹ năng mềm của bản thân đó là một quá trình rèn luyện không ngừng. Do vậy nếu các bạn sinh viên không có ý thức tự rèn luyện những kỹ năng mềm quan trọng cho bản thân các bạn sẽ không thể hoàn thiện những kỹ năng mềm đó cho dù bạn nhận thức được tầm quan trọng của những kỹ năng đó. Còn nếu các bạn luôn có ý thức rèn luyện, học hỏi để không ngừng nâng cao những kỹ năng mềm của bản thân, các bạn sẽ luôn nắm bắt được những cơ hội trong học tập, công việc và cuộc sống. 2.4. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VỀ VIỆC NHÌN NHẬN ĐÁNH GIÁ KỸ NĂNG MỀM CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI 2.4.1. Trên thế giới. Các quốc gia phát triển ở châu Âu, châu Mỹ lẫn châu Á luôn đặt nhu cầu rèn luyện kỹ năng cho sinh viên và công dân lên hàng đầu. Tất cả đều nhằm mục tiêu thúc đẩy nền kinh tế bằng nguồn lao động kỹ năng cao, đồng thời giúp công dân có mức thu nhập cao và thành đạt. Năng lực của con người được đánh giá trên cả 3 khía cạnh: kiến thức, kỹ năng và thái độ. Các nhà khoa học trên thế giới thì cho rằng: Để thành đạt trong cuộc sống thì kỹ năng mềm (trí tuệ cảm xúc) chiếm 85%, kỹ năng cứng (trí tuệ logic) chỉ chiếm 15%.Thực tế cho thấy các trường đại học hàng đầu thế giới như Harvard, Stanford... cũng không bao giờ rộng cửa nếu sinh viên nộp hồ sơ vào không có thành tích hoạt động xã hội. Thực tế quan sát ở nước ngoài cho thấy: Sinh viên đại học của các trường đại học ở Mỹ luôn rất tích cực và chủ động trong các hoạt động ngoại khóa hay hoạt động xã hội của nhà trường dù là bắt buộc hay tự nguyện, dù có được trả tiền hay không được trả tiền. Các hình thức hoạt động cũng phong phú, nhiều khi chỉ đơn giản như đến giúp sắp xếp giấy tờ trong một văn phòng nào đó của nhà trường vào một giờ rảnh, hay tham gia tổ chức các sự kiện nào đó của nhà trường. Đến một số trường (kể cả các trường ở Châu Á) ta còn thấy, khách thăm trường được sinh viên tổ chức đón tiếp, đưa đi thăm quan trường, thăm quan thành phố, tổ chức biểu diễn văn nghệ, và nấu ăn đãi khách. Các hoạt động này được sinh viên các nước tổ chức rất chuyên nghiệp và sáng tạo. Có lẽ đây chính là mô hình mà chúng ta chưa học hỏi được. 29 Ở Mỹ, nơi lòng say mê sáng tạo đã được coi như kim chỉ nam của mọi thành công, sinh viên luôn phải tự tìm cách nghiên cứu hay giải quyết lấy mọi vấn đề mà học tập đặt ra. Chẳng hạn như kỳ thi tuyển đặc biệt vào trường đại học Oxford (Mỹ). Giáo sư chỉ cầm một tờ báo đọc sau khi đã yêu cầu cậu thí sinh hãy làm điều gì đó làm ông bất ngờ nhất, nhằm đo chỉ số IQ của anh ta. Sau vài giây suy nghĩ, anh bèn châm lửa đốt tờ báo và rồi ung dung bước vào trường đại học danh tiếng nhất nước Mỹ. Ví dụ trên đây luôn coi là ví dụ tiêu biểu nhất cho việc đề cao năng lực tư duy sáng tạo của sinh viên Mỹ. Nói lên sự thông minh, can đảm để đạt đến thành công trong cuộc sống. Trái với Mỹ, phương pháp tạo dựng năng lực tư duy sáng tạo cho sinh viên ở Nhật lại khác hẳn. Sinh viên chỉ sáng tạo sau khi tư duy đã chín muồi. Nói cách khác, sinh viên Nhật phải tích lũy một khối lượng kiến thức cần thiết trước khi có thể có những sáng tạo một cách đúng nghĩa. Tuy nhiên, trên thực tế, khi bước vào quá trình sáng tạo theo kiểu ngẫu hứng như sinh viên Mỹ, năng lực tư duy sáng tạo của họ rất bị hạn chế và họ buộc phải tuân theo những điều thuộc về nguyên tắc và vốn là truyền thống của đất nước mặt trời mọc. Những đặc trưng của sinh viên các nước phát triển: Những đặc trưng trên của nền giáo dục phát triển đã tạo cho sinh viên tính chủ động, sáng tạo và ý thức độc lập, tự giác cao: Chủ động, năng động sáng tạo: Khi học, sinh viên không chỉ đơn thuần lắng nghe những gì giảng viên nói và đồng tình 100%, các giảng viên trông đợi những đóng góp mang tính chất xây dựng từ phía sinh viên, trò học hỏi thầy nhưng thầy cũng có thể hỏi học trò để hoàn thiện thêm bài giảng của mình. Giảng viên thường quan niệm một buổi học chỉ có thể hình thành và thành công trên cơ sở tham gia của cả thầy lẫn trò, cả hai đóng vai trò ngang nhau. Lúc này, thầy chỉ là người hướng dẫn cả lớp thảo luận về đề tài của buổi học. Có những giảng viên tỏ ra thú vị và thậm chí còn tán thưởng những câu hỏi và ý kiến phản biện từ sinh viên, tiếp đến họ yêu cầu SV chứng minh ý kiến ấy và đưa ra giải pháp thực tiễn. 30 Độc lập: Mức độ cá nhân hoá của nền giáo dục các nước phát triển rất cao. Mỗi sinh viên là một cá thể độc lập, độc lập trong suy nghĩ, trong hành động. Khi được giao một đề tài nghiên cứu, sinh viên sẽ chủ động tìm tòi, sáng tạo chỉ với một chút hướng dẫn của thầy. Các Giảng viên thường chờ đợi ở sinh viên sự độc lập làm việc và đánh giá cao những tìm tòi vượt ra ngoài phạm vi bài giảng trên lớp. Tự giác: Một lớp học ở các trường đại học lớn có đến gần 100 sinh viên, học ở trong một giảng đường lớn. Giảng viên thường chẳng bao giờ điểm danh hay kiểm tra sĩ số. Sinh viên phải chịu trách nhiệm với việc học của chính mình, tự giác đi học đầy đủ, làm bài kiểm tra, làm bài tập về nhà. Nếu không học thì sẽ thi trượt và hậu quả là bị điểm kém hoặc phải học lại mà điều này là tối kỵ cho sự nghiệp tương lai sau này. Sinh viên tự giác vì họ biết rằng không học chỉ "thiệt". Một khía cạnh khác của tính tự giác trong học tập là tính trung thực. Hiếm khi bạn thấy sinh viên gian dối trong các bài kiểm tra, sao chép tài liệu, nhờ làm hộ bài, trích dẫn ý kiến của người khác mà không nhắc đến nguồn trích dẫn, vì những hành vi này bị phạt rất nghiêm khắc và nặng nề (có thể bị đuổi học) và liên quan đến vấn đề danh dự của mỗi sinh viên. 2.4.2. Ở Việt Nam. Còn sinh viên Việt Nam? Học sinh, sinh viên Việt Nam vốn rất nổi tiếng ở tinh thần tự chủ trong học tập. Hàng năm, chúng ta luôn đạt nhiều giải thưởng cao trong các cuộc thi trí tuệ trên thế giới (toán, vật lý, cờ vua, robocon…). Thế nhưng, năng lực lao động của Việt Nam lại đứng ở một vị trí khiêm nhường và chưa được đánh giá cao bởi hạn chế từ những kỹ năng nghề nghiệp. Hầu hết sinh viên Việt Nam ra trường đều thiếu kỹ năng mềm. Chính vì trong giáo dục của Việt Nam không coi trọng vào đào tạo kỹ năng mềm nên các bạn sinh viên khi ra trường thường thiếu kinh nghiệm làm việc, cách giao tiếp, ứng xử và tác phong chuyên nghiệp. Thường các bạn sinh viên khi còn ngồi trên ghế giảng đường, các bạn chỉ tập trung nhiều vào chuyện học. 31 Vấn đề của số đông người trẻ hiện nay là vẫn xem thuật ngữ “kỹ năng mềm” (soft skills) là thứ gì đó cao siêu, ngại tiếp cận. Thực tế, đó chỉ là những phản xạ hết sức cơ bản trong cuộc sống hàng ngày. Phần đông những người Việt trẻ chỉ chăm chăm gây ấn tượng với nhà tuyển dụng bằng những kỹ năng “cứng” (hard skills), nghĩa là những thứ thường xuất hiện trên hồ sơ lý lịch: bằng cấp, khả năng chuyên môn, kinh nghiệm làm việc. Tuy quan trọng là thế, nhưng kỹ năng mềm chưa thực sự được ngành giáo dục nước ta chú trọng, các bạn trẻ phải tự tích lũy là chính. Ở Việt Nam, các kỹ năng chưa được chú trọng trong hệ thống giáo dục cũng như trong cuộc sống. Hình như nền giáo dục của chúng ta đang dựa trên một giả định “người ta biết thì người ta sẽ làm được”. Và vì vậy họ cứ cố dạy cho học sinh, sinh viên thật nhiều kiến thức hòng làm được việc khi ra trường. Nhưng thực tế đâu có vậy, từ biết đến hiểu là một khoảng cách rất xa, và từ hiểu đến làm việc chuyên nghiệp với năng suất cao là một khoảng cách còn xa hơn nữa. Điều này dẫn đến một thực trạng là sinh viên khi ra trường biết nhiều kiến thức nhưng lại không có khả năng làm việc cụ thể. Chỉ vài năm gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng mới nhắc nhiều đến cụm từ “kỹ năng” và “kỹ năng mềm”. Từ nhiều năm nay, các nước trên thế giới đã đưa môn học giáo dục kỹ năng sống vào chương trình học ở bậc tiểu học. Tại Việt Nam, những năm gần đây cũng đã xuất hiện loại hình này song chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh… Chương trình đổi mới phương pháp dạy học của ngành giáo dục được coi là lấy học sinh là trung tâm nhưng cũng chưa đáp ứng được những vấn đề liên quan đến kỹ năng sống. Những năm gần đây, tình trạng trẻ vị thành niên phạm tội có xu hướng gia tăng. Đặc biệt, xuất hiện những vụ án giết người, cố ý gây thương tích mà đối tượng gây án là học sinh và nạn nhân chính là bạn học và thầy cô giáo của họ. Bên cạnh đó là sự bùng phát hiện tượng học sinh phổ thông hút thuốc lá, uống rượu, tiêm chích ma tuý, quan hệ tình dục sớm..., thậm chí là tự sát khi gặp vướng mắc trong cuộc sống. Nhiều em học giỏi, nhưng ngoài điểm số cao, khả năng tự chủ và kỹ năng giao tiếp lại rất kém. Các em sẵn sàng đánh nhau, chửi bậy, sa đà vào các tệ nạn xã hội, thậm chí liều lĩnh từ bỏ cả mạng sống… Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng trên, nhưng theo các chuyên gia giáo dục, nguyên nhân sâu xa là do các 32 em thiếu kỹ năng sống. Các em chưa bao giờ được dạy cách đương đầu với những khó khăn của cuộc sống như cha mẹ ly hôn, gia đình phá sản, kết quả học tập kém... Các em không được dạy để hiểu về giá trị của cuộc sống. Thực tế, việc giáo dục toàn diện cho học sinh, trong đó có kỹ năng sống, ở nước ta còn rất hạn chế. Nhà trường vẫn còn quan niệm dạy học là dạy kiến thức chứ chưa dạy các em thái độ, kỹ năng ứng xử trong các mối quan hệ (với con người, với môi trường thiên nhiên...). Trong khi đó, các giáo viên đến lớp chỉ mỗi việc đọc cho học sinh chép, hết giờ thì ra khỏi lớp. Giáo viên chủ nhiệm, cả tuần cũng chỉ có một tiết sinh hoạt lớp. Thầy, cô giáo chủ nhiệm, được giao phụ trách học sinh nhưng không có thời gian nắm tình hình của từng em. Theo một nghiên cứu mới đây của Viện Nghiên cứu Giáo dục Việt Nam, có đến 83% sinh viên tốt nghiệp ra trường bị đánh giá là thiếu kỹ năng mềm, 37% sinh viên ra trường không tìm được việc làm do không đáp ứng đươc nhu cầu về kỹ năng mềm. Điều đó lý giải tại sao rất nhiều sinh viên sớm bươn chải, đi làm thêm khi còn đi học đã thành công hơn những “mọt sách”. Đã có không ít những bạn sinh viên chỉ biết chăm chú với bài vở, đạt điểm rất cao nhưng ra trường không xin được việc làm hoặc chỉ làm nhân viên bình thường. Khi trường học không có nội dung đào tạo kỹ năng mềm, nhiều trung tâm đã mở ra các lớp đào tạo để đáp ứng nhu cầu cho bạn trẻ. Hầu hết các trung tâm đều giảng dạy theo hình thức trải nghiệm (trao đổi kỹ năng, kinh nghiệm, trò chơi, bài tập…). Các giảng viên dựa trên cách tiếp cận người học để khơi dậy sự vận động của học viên. Cách làm này khá hiệu quả, nhưng thực tế cho thấy, những lớp học này vẫn đìu hiu vì ít bạn trẻ chịu bỏ thời gian và tiền bạc để giam mình vào một lớp học dạng như thế này. Cách hiệu quả hơn là tạo các sân chơi mở để các bạn trẻ được vui chơi, vừa được giải trí vừa tự thu lượm kỹ năng cho mình. Dù thiếu trầm trọng kỹ năng mềm nhưng nhiều người trẻ vẫn… không biết mình đang thiếu, và nếu nhận thức được cái sự thiếu ấy của mình, cũng chưa hẳn tìm được cách để trang bị thật nhanh, kịp với nhu cầu của cuộc sống. CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CÁC KẾT QUẢ PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG KỸ NĂNG MỀM CỦA SINH VIÊN THƯƠNG MẠI. 33 3.1. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP VÀ PHÂN TÍCH DỮ LIỆU Theo nguồn dữ liệu, có thể chia ra làm dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp: Dữ liệu sơ cấp là dữ liệu thu thập trực tiếp, ban đầu từ đối tượng nghiên cứu. Dữ liệu sơ cấp có ưu điểm là đáp ứng tốt nhu cầu nghiên cứu nhưng nhược điểm là phải tốn kém chi phí và thời gian. Dữ liệu thứ cấp là dữ liệu thu thập được từ những nguồn có sẵn, đã qua tổng hợp, xử lí. Ưu điểm thu thập nhanh, rẻ nhưng có nhược điểm là đôi khi ít chi tiết và không đáp ứng nhu cầu nghiên cứu. 3.1.1 Phương pháp thu thập dữ liệu 3.1.1.1 Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp. Trong thực tế có rất nhiều cách thu thập dữ liệu sơ cấp, nhưng trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp quan sát, phiếu điều tra và phỏng vấn. Quan sát: Là việc quan sát những sự việc, hiện tượng mà không có bất kỳ hành động can thiệp nào làm thay đổi trạng thái của hiện tượng đang nghiên cứu. Có thể quan sát bằng cách: Trực tiếp xem, nghe; Sử dụng phương tiện ghi âm, ghi hình; Sử dụng phương tiện đo lường Để thực hiện đề tài này, nhóm nghiên cứu đã sử dụng để quan sát thái độ học tập của SV trên lớp, trong những buổi thảo luận nhóm, giờ thảo luận, trong các lớp học kỹ năng mềm mà các bạn sinh viên tham gia.Nhóm nghiên cứu cũng tiến hành quan sát những hoạt động ngoại khóa mà các bạn sinh viên tham gia như các hoạt động của đoàn trường, của các câu lạc bộ trong và ngoài trường, các buổi hội thảo về kỹ năng mềm cho sinh viên cũng như quan sát thái độ của các bạn sinh viên với những khóa học về kỹ năng mềm trong và ngoài trường để biết mức độ quan tâm của các bạn sinh viên đến việc rèn luyện kỹ năng mềm. Sử dụng phiếu điều tra và phỏng vấn: 34 Đây là phương pháp thu thập dữ liệu ban đầu bằng cách đưa ra câu hỏi với đối tượng nghiên cứu hay đối tượng có liên quan để thu thập thông tin. Đối với phiếu điều tra thì các câu hỏi với các lựa chọn cho câu trả lời sẵn, hay còn gọi là câu hỏi kín. Đồng thời cũng có một câu hỏi các bạn sinh viên tự nói lên câu trả lời của mình, hay gọi là câu hỏi mở. Nhóm nghiên cứu đã phát 290 phiếu điều tra cho sinh viên trong trường, trong đó 60 phiếu năm 1; 90 phiếu năm 2 và 80 phiếu cho năm 3; 60 phiếu năm 4. Nhóm nghiên cứu thực hiện phát trong giờ ra chơi giữa giờ sau đó thu lại, ngoài ra có phát ngẫu nhiên cho một số bạn trước thư viện. Tiếp đó nhóm nghiên cứu lập bảng câu trả lời cho từng câu hỏi, tính phần trăm mỗi phương án trả lời cho mỗi câu hỏi, cuối cùng là đưa ra nhận xét. Còn với phỏng vấn thì đưa trực tiếp câu hỏi với đối tượng và nhận câu trả lời mở Ở đây, phiếu điều tra được sử dụng với số lượng lớn, câu hỏi và các phương án trả lời cho sẵn, phát đại trà cho một tập sinh viên để điều tra. Phỏng vấn với một vài sinh viên đã ra trường và đi làm thuộc các khóa k41, k42 để lấy sự đánh giá dưới góc độ những người đi làm thấy thiếu những kỹ năng mềm nào.Đồng thời nhóm nghiên cứu cũng phỏng vấn giảng viên để lấy sự đánh giá về kỹ năng mềm của sinh viên dưới góc độ giảng viên. Bên cạnh đó nhóm nghiên cứu cũng phỏng vấn những người hiện đang làm công tác tuyển dụng trong các công ty để lấy sự đánh giá từ phía nhà tuyển dụng với những kỹ năng cần thiết trong môi trường làm việc. Với sinh viên khoá 41 và 42 đã đi làm, nhóm nghiên cứu gửi mail bản mềm câu hỏi và nhận lại bản trả lời qua mail. Nhóm nghiên cứu tiến hành phỏng vấn với các thầy cô giáo với phương pháp lấy ý kiến trực tiếp từ thầy cô giáo với những câu hỏi mở. Với nhà tuyển dụng nhóm nghiên cứu tiến hành phỏng vấn với phương pháp tương tự. Sau khi có bảng trả lời câu hỏi sẽ tổng hợp ý kiến và rút ra kết luận. 35 3.1.1.2 Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp. Hiện nay có rất nhiều cách thu thập dữ liệu thứ cấp chẳng hạn như thu thập qua sách báo, các báo cáo, các bài phân tích của chuyên gia hay qua các phương tiện thông tin đại chúng…Đây là các dữ liệu xử lý có sẵn, cho phép sử dụng ngay tuỳ thuộc vào mục đích người sử dụng. Trong đề tài này, để có được những dữ liệu cần thiết cho quá trình nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã thu thập các dữ liệu liên quan đến việc học tập và rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên thông qua sách, báo, các hội thảo về những kỹ năng mềm cần thiết cho sinh viên trong việc học tập cũng như trong môi trường làm việc sau này. Sách được tìm chủ yếu trong thư viện nhà trường, có thể nêu một số cuốn tiêu biểu như: “Nghệ thuật giao tiếp hữu hiệu nơi công sở”, “Giao tiếp trong kinh doanh”, “Nghệ thuật ứng xử và 100 điều tâm đắc”, “Nghệ thuật nói trước công chúng”, “ Nghệ thuật ứng xử giao tiếp”….. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng tìm hiểu một số cuốn sách khác như “Small talk”, “Ai che lưng cho bạn”, “Thật đơn giản phỏng vấn tuyển dụng”, “Nghệ thuật giao tiếp để thành công”…. Internet cũng là nguồn cung cấp tài liệu phong phú, với những bài viết của các tác giả, các cuộc thảo luận vể những kỹ năng mềm cần thiết trong cuộc sống và trong công việc. 3.1.2 Phương pháp phân tích dữ liệu. Phương pháp so sánh: + So sánh kết quả giữa các khoá + So sánh trên thực tế với lý thuyết Phương pháp đánh giá: Dùng để đánh giá nhận thức cũng như việc rèn luyện kỹ năng mềm của các bạn sinh viên nói chung. Phương pháp tổng hợp phân tích: + Tổng hợp ý kiến trả lời của các đối tượng phỏng vấn, phát phiếu điều tra + Tổng hợp thông tin từ các tài liệu thứ cấp có liên quan. Sau khi có thông tin tổng hợp, sẽ tiến hành phân tích dựa trên những kết quả đó. Dựa vào những phiếu điều tra đã thu thập được, nhóm nghiên cứu sẽ tổng hợp lại 36 các câu trả lời của các bạn sinh viên trong các phiếu điều tra. Từ đó tính phần trăm và đưa ra kết luận về những thế mạnh cũng như điểm yếu của các bạn sinh viên Thương Mại ,nhận thức của các bạn sinh viên về tầm quan trọng của các kỹ năng mềm, mong muốn rèn luyện kỹ năng mềm của các bạn sinh viên cũng như môi trường và điều kiện tốt nhất để phát huy kỹ năng mềm mà các bạn được học tập. 3.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC RÈN LUYỆN KỸ NĂNG MỀM CỦA SINH VIÊN THƯƠNG Việc rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên nói chung và sinh viên Thương Mại nói riêng luôn chịu ảnh hưởng của hai nhân tố . Đó là nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. Nhân tố khách quan là những yếu tố bên ngoài tác động vào quá trình rèn luyện kỹ năng của sinh viên. Nó bao gồm các nhân tố chính như : chính sách đào tạo của nhà nước và cơ chế đào tạo của nhà trường. Nhân tố chủ quan là những yếu tố bên trong như nhận thức của sinh viên về kỹ năng mềm , tầm quan trọng của kỹ năng mềm, cũng như ý thức của các bạn trong việc rèn luyện kỹ năng mềm. Việc phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới việc rèn luyện kỹ năng mềm nhằm chỉ ra những tác động tích cực cũng như tiêu cực của các nhân tố khách quan và chủ quan . Từ đó giúp nhà trường cũng như các bạn sinh viên có những định hướng cũng như giải pháp nhằm hạn chế những tác động tiêu cực, tận dụng và phát huy những ảnh hưởng tích cực. 3.2.1. Nhân tố khách quan 3.2.1.1. Chính sách đào tạo của nhà nước Chính sách đào tạo là chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng phát triển các phẩm chất, năng lực cho mỗi người dân ( cả về tư tưởng, đạo đức, khoa học, sức khỏe, nghề nghiệp ). Chính sách đào tạo của nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến việc rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên nói chung và sinh viên đại học Thương mại nói riêng . Các chính sách , chỉ thị của Bộ GD và ĐT ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu, cách thức và phương hướng đào tạo của các trường đại học và nó ảnh hưởng gián tiếp đến việc rèn luyện của sinh viên trong quá trình học tập. 37 Nhận thấy xu hướng ngày nay , nhà tuyển dụng ngày càng coi trọng kỹ năng mềm, chính vì vậy mà nhà nước cũng như Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ngày càng quan tâm đến việc đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên . Điều đó được thể hiện thông qua nội dung chuẩn đầu ra bao gồm cả chuẩn về kỹ năng cứng và kỹ năng mềm . Chỉ thị này được đưa xuống các trường đại học, và yêu cầu các trường xây dựng một chuẩn đầu ra cho từng ngành chuyên ngành đào tạo khác nhau. Nó tác động đến phương pháp dạy của nhà trường để có thể đào tạo những sinh viên đáp ứng đủ tiêu chuẩn đầu ra trong đó có yêu cầu về kỹ năng mềm . Ở một số trường, chứng chỉ kỹ năng mềm đã trở thành một trong những điều kiện bắt buộc để sinh viên có thể nhận giấy tốt nghiệp. Điều này giúp các bạn sinh viên nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của kỹ năng mềm. 3.2.1.2. Cơ chế đào tạo của nhà trường Trường Đại học Thương mại (tên tiếng anh là Vietnam University of Commerce, tên giao dịch viết tắt là VCU) là trường đại học công lập trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, là thành viên của Hiệp hội trường đại học Việt Nam (VUZ), Hiệp hội các trường đại học Châu Á&Thái Bình Dương, của Viện nghiên cứu kinh tế-quản lý Pháp ngữ (CEDIMES), của Tổ chức các Trường đại học sử dụng tiếng Pháp (AUF) với sứ mạng: Xây dựng và phát triển Trường Đại học Thương mại trở thành trường đại học đa ngành tiên tiến trong các lĩnh vực kinh tế và thương mại (bao gồm thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại các hoạt động đầu tư và sở hữu trí tuệ) của Việt Nam có uy tín trong khu vực và trên thế giới; một trung tâm giáo dục có chất lượng và không ngừng được cải tiến với phương pháp đào tạo liên tục được đổi mới và hoàn thiện; một trung tâm đầu ngành trong nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và cung ứng dịch vụ đào tạo có uy tín về thương mại, du lịch, dịch vụ và hội nhập kinh tế quốc tế; một trung tâm văn hoá nhằm cung cấp cho xã hội những cán bộ có trình độ đại học, sau đại học đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, văn hoá và năng lực nghề nghiệp thích ứng với điều kiện môi trường đang thay đổi và đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của đất nước. Trường đại học Thương Mại là một trong những trường đi đầu trong công tác chuyển đổi từ hình thức đào tạo niên chế sang hình thức theo học chế tín chỉ. Theo 38 chủ trương của Bộ giáo dục và Đào tạo về việc chuyển đổi từ hình thức đào tạo đại học và cao đẳng theo niên chế sang hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ, Trường Đại học Thương mại đã thành lập Ban Nghiên cứu và triển khai đào tạo tín chỉ và xây dựng kế hoạch tổ chức chuẩn bị các điều kiện để triển khai đào tạo theo hệ thống tín chỉ vào Trường từ khóa tuyển sinh năm 2007. Sự chuyển từ cơ chế đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ là một bước chuyển biến lớn. Nó ảnh hưởng rất lớn đến quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên. Sự chuyển đổi về cơ chế không chỉ là sự thay đổi về phương thức đào tạo, cách dạy và cách học của giảng viên cũng như của sinh viên mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên. Vậy hình thức đào tạo theo niên chế và đào tạo theo hệ thống tín chỉ là gì ? Vì sao sự chuyển đổi về hình thức đào tạo lại ảnh hưởng đến việc rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên ? Để trả lời cho câu hỏi trên, chúng ta sẽ tìm hiểu hai hình thức đào tạo này và so sánh sự khác nhau giữa hai hình thức đào tạo. Đào tạo theo niên chế là đào tạo theo năm học, mỗi chương trình đào tạo của một ngành học được quy định đào tạo trong một số năm nhất định. Ví dụ chương trình đào tạo trình độ đại học được cấp bằng cử nhân thường đào tạo trong 4 năm, cấp bằng kỹ sư được đào tạo trong 5 năm, cấp bằng bác sỹ được đào tạo trong 6 năm. Sinh viên học hết thời gian quy định nếu không bị lưu ban, dừng tiến độ học tập thì được cấp bằng tốt nghiệp đại học, được ra trường. Đào tạo theo tín chỉ không tổ chức theo năm học mà theo học kỳ. Một năm học có thể tổ chức đào tạo từ 2 đến 3 học kỳ, mỗi chương trình đào tạo của một ngành học nhất định không tính theo năm mà tính theo sự tích lũy kiến thức của sinh viên, sinh viên tích lũy đủ số tín chỉ quy định cho một ngành học thì được cấp bằng tốt nghiệp đại học, được ra trường. Trong đào tạo theo niên chế mọi lịch học, lịch thi được phòng Đào tạo chuẩn bị sẵn. Các lớp sinh viên được biên chế cố định ngay từ ngày nhập trường và ít khi có sự biến động. Sinh viên chấp hành tốt các lịch học, lịch thi, các quy định, quy chế của nhà trường, tích cực học tập và rèn luyện thì sẽ đạt kết quả tốt. Chính vì vậy hạn chế của hình thức đào tạo theo niên chế mà ai cũng có thể nhận thấy, đó là làm cho sinh viên trở nên thụ động trong việc sắp xếp lịch học cho phù hợp với thời gian biểu riêng 39 của mỗi cá nhân. Khác với hình thức đào tạo theo niên chế, đào tạo theo tín chỉ, sinh viên phải tự đăng ký lịch học, sinh viên không đăng ký sẽ không có lịch học. Để làm được việc đó sinh viên phải nghiên cứu kỹ, nắm chắc các tài liệu của nhà trường như quyển niên giám, sổ tay sinh viên, nắm vững chương trình đào tạo, các học phần phải học trước, các học phần học song hành, phần kiến thức giáo dục đại cương, phần kiến thức giáo dục chuyên nghiệp… để có thể đăng ký lịch học cho từng học kỳ cho phù hợp. Vì vậy mà đào tạo theo tín chỉ yêu cầu sinh viên phải nắm rõ chương trình học, nội dung đào tạo. Ngoài ra các bạn sinh viên được chủ động sắp xếp lịch học cho phù hợp với bản thân. Việc đó giúp ích rất nhiều cho các bạn sinh viên trong rèn luyện kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc và bắt đầu bằng chính việc lên kế hoạch học tập cho chính bản thân. Phương thức đào tạo theo niên chế là hình thức học mà hầu hết các bạn sinh viên đã quen từ khi còn là một học sinh cấp một cho đến cấp ba. Ở phương thức đào tạo theo niên chế, thầy và trò quen với việc dạy và học một chiều, thụ động theo kiểu thầy giảng – trò ghi. Giảng viên có nhiệm vụ truyền đạt , giảng giải đúng và đủ kiến thức đã được quy định trong từng bài, từng chương của giáo trình vốn được thiết kế phù hợp với yêu cầu của chương trình môn học và kế hoạch đào tạo của niên chế. Việc tiếp thu kiến thức một chiều thường làm cho người học cảm thấy nhàm chán. Lâu dần làm cho sinh viên có thói quen ỷ lại vào giảng viên mà không chủ động tìm tòi học hỏi, không có sự sáng tạo, tìm hiểu thêm kiến thức bên ngoài. Khi chuyển đổi từ niên chế qua tín chỉ, thời gian có mặt ở trên lớp giảm đi 1/3 thay vào đó là thời gian tự học phải tăng lên. Theo quy định cứ 1 tín chỉ sinh viên phải tự học là 30 tiết. Trong đào tạo theo tín chỉ yêu cầu về chuẩn đào tạo không hề thay đổi, trước mắt vẫn giữ nguyên và dần dần sẽ tăng lên theo yêu cầu của công tác kiểm định chất lượng. Như vậy thời gian giảng dạy trên lớp giảm đi, thời gian tự học của sinh viên tăng lên trong khi không được giảm yêu cầu đánh giá. Vậy làm thế nào để đảm bảo chất lượng. Mấu chốt của vấn đề là phải đổi mới phương pháp giảng dạy. Phải giảng dạy bằng phương pháp tích cực. Các phương pháp giảng dạy trong đào tạo theo niên chế vẫn tiếp tục được phát huy các điểm mạnh, nhưng việc nâng cao sự chủ động của sinh viên trong giờ học được đặt lên hàng đầu. Để đáp ứng được yêu cầu này sinh viên phải nghiên cứu tài liệu trước khi lên lớp, giảng viên phải tăng cường cho sinh viên tự học ngay 40 trên lớp bằng các biện pháp như nêu ra các vấn đề của bài giảng để sinh viên tìm ra cách giải quyết theo định hướng của giảng viên để sinh viên có thói quen tự học. Có thể nói trong đào tạo theo tín chỉ, đối với sinh viên tự học là vấn đề quan trọng nhất, sinh viên phải tự học ngay trên lớp, lên lớp là làm việc thực sự (chứ không phải đi nghe giảng, dự giờ). Muốn tự học trên lớp có hiệu quả sinh viên phải tự đọc tài liệu trước, không chỉ đọc giáo trình mà phải đọc tài liệu có liên quan, không phải đọc cả quyển tài liệu mà chỉ đọc những vấn đề trực tiếp liên quan đến bài giảng. Các vấn đề liên quan đều phải được đánh dấu lại, ghi chép lại hoặc có chỉ dẫn rõ ràng để khi cần lập tức có thể tra cứu được ngay. Phương thức học mới này, chính là đang giúp sinh viên rèn luyện kỹ năng học và tự học. Mỗi môn học, các bạn sinh viên được chia thành từng nhóm và được giao đề tài thảo luận theo nhóm. Các thành viên trong nhóm có nhiệm vụ cùng bàn bạc thảo luận đề tài . Để có một bài thảo luận hoàn chỉnh và được đánh giá cao, các thành viên trong nhóm phải có sự thống nhất ý kiến về bài thảo luận và có sự phân công công việc rõ ràng phù hợp với khả năng và sở trường của từng người. Hình thức thảo luận theo nhóm này giúp các bạn sinh viên được làm quen và dần dần hình thành kĩ năng làm việc theo nhóm, biết phát huy sức mạnh tập thể. Hơn thế nữa, giờ thảo luận trên lớp còn tạo điều kiện cho các bạn sinh viên có cơ hội thuyết trình trước đám đông và trở nên tự tin hơn. Việc chuyển đổi hình thức đào tạo từ niên chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ là một bước chuyển đổi trong cải cách nền giáo dục Việt Nam. Nó tạo ra sự đổi mới về cách dạy, cách học của nhà trường và sinh viên. Hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ tạo ra sự chủ động cho sinh viên trong quá trình học tập. HCTC đòi hỏi SV phải có chiến lược học tập, xây dựng kế hoạch học tập và đăng ký môn học theo khả năng học tập, nhu cầu ngành học và hoàn cảnh kinh tế của mình. Vậy hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ giúp sinh viên chủ động hơn trong quá trình học tập, ngoài ra còn rèn cho sinh viên kỹ năng học và tự học, kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc trong quá trình học tập. Nhận thức được vai trò,tầm quan trọng của kỹ năng mềm cũng như xu hướng tuyển dụng của các doanh nghiệp, trường đại học Thương Mại ngày càng quan tâm đến việc đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên. Nhà trường luôn tạo cho sinh viên một môi trường tốt để có thể rèn luyện cho mình những kỹ năng mềm. Mỗi một học phần, 41 sinh viên được chia thành các nhóm khác nhau. Các nhóm sẽ được chia theo danh sách lớp và các học phần khác nhau sẽ hình thành nên các nhóm khác nhau. Điều này rất hữu ích với sinh viên nhất là những bạn sinh viên năm đầu, mới bước chân vào trường, còn nhiều bỡ ngỡ rụt rè. Việc chia nhóm theo danh sách và theo từng học phần sẽ giúp các bạn nhanh chóng làm quen với các bạn mới và rèn cho bản thân khả năng giao tiếp hòa nhập vào môi trường mới tốt hơn. Giao tiếp tốt và thích nghi nhanh với môi trường là kỹ năng rất cần thiết cho bản thân mỗi chúng ta, đặc biệt là trong môi trường làm việc sau này. Về cơ sở vật chất, nhà trường cũng đã hỗ trợ rất nhiều cho sinh viên các trang thiết bị trong học tập và rèn luyện kỹ năng. Các buổi học cũng như các buổi thảo luận trên lớp, các phòng học được trang bị máy chiếu phục vụ cho công tác giảng dạy và thuyết trình của sinh viên. Nó hỗ trợ rất nhiều trong quá trình giảng dạy và học tập, giúp buổi học trở nên thú vị hơn và giúp sinh viên tự tin hơn khi thuyết trình. Ngoài ra, trường còn có hệ thống thư viện với rất nhiều đầu sách và rất nhiều loại sách. Sách trong thư viện rất phong phú cả về số lượng và chủng loại. Đây là nguồn tư liệu phong phú phục vụ cho sinh viên trong việc tự nghiên cứu tìm tòi, học và tự học. Không chỉ tạo điều kiện cho sinh viên rèn luyện kỹ năng mềm mà nhà trường còn đưa kỹ năng mềm vào chương trình đào tạo, giảng dạy. Đó là các học phần phát triển kỹ năng như : kỹ năng tìm kiếm việc làm và tuyển dụng, kỹ năng trình diễn vấn đề chuyên ngành, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng thực hiện đề tài luận văn chuyên đề tốt nghiệp, kỹ năng điều tra và chia sẻ thông tin online, kỹ năng ra quyết định quản lý. Các học phần phát triển kỹ năng là học phần tự chọn. Tùy vào sở thích và chuyên ngành của mình mà sinh viên có thể chọn cho mình lớp kỹ năng thích hợp. Sinh viên có thể đăng kí và tham gia các lớp học kỹ năng ngay trong trường. Có thể nhận thấy rằng nhà trường đã rất quan tâm đến việc đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên. Nhưng không dừng lại ở đó những hoạt động về đoàn, đội do nhà trường tổ chức cũng mang lại rất nhiều cơ hội cho các bạn sinh viên rèn luyện kỹ năng mềm. Những hoạt động tình nguyện của các đội sinh viên trong trường như mùa hè xanh,tiếp sức mùa thi, cứu giúp đồng bào lũ lụt, hoạt động hiến máu nhân 42 đạo….những hoạt động đó vừa mang ý nghĩa giúp các bạn sinh viên cảm thấy vui vì sự đóng góp nhỏ bé của mình vì một xã hội tốt đẹp hơn. Không chỉ dừng lại ở đó những hoạt động tình nguyện đó cũng đã giúp các bạn sinh viên rèn luyện được khả năng làm việc nhóm, giúp các bạn năng động và tự tin hơn. Gần đây nhà trường có mở thêm trung tâm hướng nghiệp sinh viên.Trung tâm giúp định hướng nghề nghiệp cho các bạn sinh viên sau khi ra trương đồng thời mang lại những cơ hội nghề nghiệp cho các bạn sinh viên ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Các bạn sinh viên sẽ được trung tâm hướng nghiệp tạo cơ hội có được một công việc part time khi ngồi trên ghế nhà trường điều này sẽ giúp các bạn tiếp xúc sớm hơn với môi trường công việc bên ngoài từ đó giúp các bạn nhận thức sâu hơn về những kỹ năng mềm mà các bạn cần rèn luyện để phục vụ tốt hơn công việc sau này của mình từ đó có mục tiêu rèn luyện cho bản thân vầ kiến thức chuyên môn cũng như các kỹ năng một cách chủ động và sáng tạo.Đồng thời trung tâm hướng nghiệp còn mở lớp đào tạo về những kỹ năng cần thiết với các bạn sinh viên như kỹ năng bán hàng chuyên nghiệp, kỹ năng trong phỏng vấn tuyển dụng….Trong khi hiện tại cũng có rất nhiều khóa học kỹ năng bên ngoài và các bạn sinh viên đang boăn khoăn khi lựa chọn những lớp kỹ năng đó vì không biết chất lượng đào tạo ra sao, trung tâm hướng nghiệp đã tạo cơ hội cho các bạn sinh viên tham gia khóa học với sự tin tưởng về chất lượng , tin tưởng về người giảng dạy.Qua mỗi khóa học các bạn sinh viên sẽ tự tin hơn với những kỹ năng đã được đào tạo đó là những hành trang vững vàng cho các bạn trong công việc sau này. Mặc dù đã có sự quan tâm đến việc đào tạo và phát triển kỹ năng mềm nhưng việc đào tạo và phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên vẫn còn những mặt hạn chế. Những lớp học về kỹ năng mềm đòi hỏi cơ sở vật chất tiện nghi hiện đại phục vụ cho việc giảng dạy như camera, các thiết bị tổ chức trò chơi… Ví dụ, một lớp học về kỹ năng thuyết trình nếu được trang bị về camera, học viên lên thuyết trình và được ghi hình và xem lại. Khi đó học viên xem lại và sẽ dễ dàng nhận ra những thiếu sót của bản thân và sửa đổi. Các lớp học về kỹ năng của nhà trường thường được tổ chức trên lớp theo cách giảng dạy truyền thống, chưa có sự sáng tạo và chưa thực sự đem lại hiệu quả . Khóa học về kỹ năng mềm là khóa học đặc biệt nên cần tạo ra một môi trường, không gian học mới mẻ, thú vị. Các khóa học về kỹ năng làm việc nhóm hay 43 kỹ năng giao tiếp, có thể tổ chức trò chơi và hoạt động ngoài trời. Như vậy sẽ đem lại hiệu quả cao hơn cho người học. Mặc dù khái niệm “ kỹ năng mềm “ không còn xa lạ và ngày càng được nhà nước và nhà trường quan tâm nhưng việc đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên không hề đơn giản . Bởi đây là một môn học đòi hỏi sự linh hoạt mềm dẻo . Chính vì cần sự mềm dẻo và linh hoạt nên việc dạy kỹ năng mềm cũng không theo một chuẩn mực nhất định. Chính vì lý do trên mà việc đưa ra chuẩn đầu ra về kỹ năng mềm cũng gặp nhiều khó khăn. Hầu hết các trường đưa ra chuẩn đầu ra về kỹ năng mềm còn chung chung, chưa cụ thể. Vì không có một tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá kỹ năng mềm nên cũng khó để lựa chọn phương thức dạy và đánh giá kết quả giảng dạy. Hầu hết các nhà tuyển dụng đều cho rằng cách duy nhất để ứng viên rèn luyện kỹ năng mềm là phải học hỏi, trau dồi thường xuyên, tạo cho mình phản xạ tức thời khi gặp các tình huống bất ngờ. Nhưng thường các khóa học về kỹ năng mềm chỉ diễn ra trong thời gian ngắn nên không đem lại hiệu quả cao. Thời lượng buổi học ngắn cũng chưa đủ hoàn thiện kỹ năng cho sinh viên. Hơn nữa, đội ngũ đào tạo chuyên sâu về kỹ năng mềm của nhà trường còn thiếu, phần lớn là thầy cô chưa có kinh nghiệm chuyên sâu về đào tạo kỹ năng mềm. Hầu hết giảng viên chỉ chọn lọc những thông tin trong và ngoài nước trên Internet để chia sẻ với học viên, việc đào tạo trở nên không hiệu quả vì chỉ đơn thuần là lý thuyết. 3.2.2. Nhân tố chủ quan Bên cạnh những nhân tố khách quan, ta không thể không nhắc đến nhân tố chủ quan có phần tác động rất lớn đến việc rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên. Đó chính là tự bản thân mỗi sinh viên. Chính sách giáo dục của nhà nước và cơ chế đào tạo của nhà trường chỉ là những yếu tố bên ngoài tác động vào, tạo cho các bạn cơ hội và môi trường rèn luyện. Nhân tố quan trọng, ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên chính là nhận thức và ý thức rèn luyện kỹ năng mềm của bản thân mỗi sinh viên. 44 3.2.2.1. Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của kỹ năng mềm Môi trường đào tạo của nhà trường tạo điều kiện cho các bạn sinh viên rèn luyện kỹ năng mềm nhưng một vấn đề đặt ra ở đây là liệu các bạn sinh viên đã nhận thức được môi trường thuận lợi đó chưa, các bạn sinh viên đã có phương pháp rõ ràng cho việc phát triển những kỹ năng của mình hay vẫn còn chưa chú trọng đến việc phát triển những kỹ năng mềm? Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng mềm, các bạn sinh viên mới có thể chủ động trong việc học hỏi rèn luyện, xác định rõ ràng mục đích của việc rèn luyện kỹ năng mềm. Và có nhận thức được tầm quan trọng của nó, các bạn sinh viên mới biết tận dụng môi trường thuận lợi mà nhà trường đã tạo ra để phục vụ tốt nhất cho việc rèn luyện của bản thân. Ta có thể nhận thấy rằng, các bạn trẻ đặc biệt là các bạn sinh viên ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng mềm. Điều đó được thể hiện qua, ngày càng có nhiều trung tâm đào tạo về kỹ năng mềm được mở ra và thu hút được sự chú ý của rất nhiều bạn trẻ , trong đó có các bạn sinh viên đại học Thương Mại. Nhiều bạn rất tích cực trong việc tham gia các hoạt động Đoàn, hoạt động tình nguyện. Trung tâm hướng nghiệp sinh viên tuy mới được thành lập nhưng được sự chú ý rất nhiều của các bạn sinh viên.Điều đó được thể hiện qua những bản CV của các bạn sinh viên nộp tại trung tâm hướng nghiệp.Trung tâm giúp định hướng cho các bạn sinh viên rèn luyện những kỹ năng cần thiết cho công việc ngay khi ngồi trên ghế nhà trường đồng thời tạo cơ hội cho sinh viên tiếp xúc với môi trường làm việc thực tế ngay khi các bạn còn trên ghế nhà trường.Những cơ hội thiết thực mà trung tâm hướng nghiệp dành cho sinh viên đã thu hút đông đảo sự quan tâm của các bạn sinh viên. Tuy nhiên bên cạnh những bạn sinh viên học tập chăm chỉ, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ của nhóm giao cho, tích cực tìm kiếm thông tin về những lĩnh vực học tập để tiếp thu bài giảng trên lớp của thầy cô tốt nhất, tham gia nhiệt tình các giờ thảo luận trên lớp đóng góp vào sự thành công của những buổi thảo luận thì cũng có một bộ phận không nhỏ các bạn sinh viên vẫn còn thờ ơ với việc học tập theo học chế tín chỉ.Với những bạn sinh viên đó việc nhận thức về rèn luyện kỹ năng mềm dường như không có.Thay vào đó, với các bạn việc học theo học chế tín chỉ giúp các bạn có nhiều thời gian hơn cho những trò chơi, cho sở thích giải trí của các bạn vì học tín chỉ không bắt các sinh viên lên lớp nhiều như học theo trình, thầy cô chỉ với vai trò hướng dẫn sinh viên tìm, thu thập và đọc tài liệu, sinh viên giữ vai 45 trò chủ động trong học tín chỉ.Tuy nhiên một số lượng lớn các bạn sinh viên vẫn chưa thay đổi cách học vẫn dựa vào thầy cô không tìm và tiếp thu những kiến thức xã hội những kiến thức thực tế đồng thời không nhận thức được những cơ hội cho việc rèn luyện kỹ năng mềm.Trong làm việc nhóm nhiều bạn vẫn không làm tốt công việc được giao trong nhóm nhiều khi các bạn trong nhóm không có đóng góp gì cho bài thảo luận mà bài thảo luận chỉ do nhóm trưởng phụ trách từ thu thập tài liệu, viết bài, rồi ngay cả thuyết trình và phản biện.Đó là một điều đáng buồn khi các bạn không thấy được cơ hội cho bản thân mình. 3.2.2.2.Ý thức rèn luyện kỹ năng mềm của bản thân mỗi sinh viên Nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng mềm, nhưng tại sao nhiều bạn sinh viên vẫn chưa tận dụng được cơ hội học tập trên lớp, các hoạt động ngoại khóa để rèn luyện trau dồi kỹ năng mềm ? Đó là do ý thức rèn luyện của các bạn. Vẫn còn tình trạng nhiều bạn sinh viên không tự tin, mất bình tĩnh khi đứng trước đám đông, không có kỹ năng thuyết trình cũng như làm việc nhóm.Các bạn đặt câu hỏi làm sao để không còn mất bình tĩnh khi đứng trước đám đông ?Câu trả lời cho các bạn chính ở ngay trong những buổi học trên lớp những buổi thảo luận nhóm, những buổi thảo luận trên lớp nhưng các bạn lại không nhận ra, nếu các bạn nhận ra điều đó nhưng đôi khi các bạn đã quá quen thuộc với cách học tập của mình nên các bạn ngại thay đổi. Dẫn đến các kỹ năng mềm của các bạn vẫn không thể phát triển tốt dù trong một môi trường tạo điều kiện tốt nhất cho các bạn phát huy nó. Các hoạt động đoàn trong trường cũng rất phổ biến.Những hoạt động đó gián tiếp rèn luyện cho các bạn sinh viên rất nhiều kỹ năng.Nhưng một thực tế là có rất ít các bạn sinh viên tham gia vào các hoạt động của đoàn và đội.Những bạn tham gia hoạt động đoàn, đội đó là những gương mặt rất quen thuộc còn những gương mặt mới thì rất ít. Lý do mà các bạn sinh viên đưa ra khi không tham gia vào các hoạt động đó là các hoạt động ít và không rộng rãi cũng như cần số lượng các bạn tham gia ít nên các bạn không có điều kiện tham gia.Những bạn đó các bạn cũng ý thức được việc mình sẽ rèn luyện được nhiều kỹ năng khi tham gia vào các hoạt động của đoàn, đội.Tuy nhiên cũng có bạn không thích tham gia những hoạt động của đoàn, đội với lý do bản thân không có khả năng. Lý do mà các bạn đưa ra thể hiện sự không nhiệt tình 46 tham gia cũng như thể hiện một khía cạnh đó là các bạn không giám thể hiện bản thân bởi vì chưa thử các bạn sao biết được mình có hợp và hoạt động đó có thiết thực hay không.Bên cạnh những hoạt động đoàn trong trường còn rất nhiều các hoạt động của các câu lạc bộ như câu lạc bộ nhà quản trị tương lai, câu lạc bộ marketing, câu lạc bộ sách…Hoạt động của những câu lạc bộ rất thiết thực nhằm giúp các bạn sinh viên năng động, tự tin, rèn luyện kỹ năng cần thiết và tạo cơ hội cho các bạn sinh viên được tiếp xúc sớm hơn với môi trường làm việc bên ngoài. Nhà trường chỉ có thể tạo ra môi trường thuận lợi, còn yếu tố quyết định quan trọng vẫn là ở bản thân mỗi sinh viên. Vì vậy mà mỗi sinh viên chúng ta cần có một cái nhìn đúng đắn, từ đó tìm ra phương pháp rèn luyện tốt nhất cho bản thân. Có vậy, việc rèn luyện kỹ năng mềm mới đạt hiệu quả tốt nhất. 3.3. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA KN đàm phán KN làm việc đồng đội KN giải quyết vấn đề KN giao tiếp ứng xử KN thuyết trình KN lắng nghe KN lập kế hoạch và tổ chức công việc KN tư duy sáng tạo và mạo hiểm KN lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân KN học và tự học 14.50% 27% 51.50% 30% 24.50% 67.50% 33% 41% 10.50% 48.30% Biểu đồ 1: Kết quả tự đánh giá của các bạn sinh viên Thương mại về kỹ năng mềm của bản thân. Sự nhìn nhận của sinh viên Thương Mại về những kỹ năng cần thiết trong thời gian học đại học: Hầu hết các bạn sinh viên Thương Mại có cái nhìn rất đúng về những kỹ năng mềm cần thiết trong thời gian các bạn học đại học.Những kỹ năng mềm được các bạn sinh viên coi trọng nhất trong thời gian học đại học đó là những kỹ năng:Kỹ năng học và tự học với 78%,kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc:66%,kỹ năng lắng 47 nghe:54%,kỹ năng thuyết trình 76,5%, kỹ năng giao tiếp ứng xử 68,5%, kỹ năng giải quyết vấn đề 61,5%, kỹ năng làm việc đồng đội 69%. Nhận thức về tầm quan trọng của những kỹ năng trên giúp các bạn sinh viên chủ động hơn trong rèn luyện những kỹ năng đó.Việc đề cao tầm quan trọng những kỹ năng đó của các bạn sinh viên trong thời gian học đại học cho thấy các bạn đã nhận thức được sự đóng góp không nhỏ của những kỹ năng đó trong việc học tập, giúp các bạn đạt được kết quả cao hơn trong việc học tập của các bạn.Với hình thức học theo học chế tín chỉ để đạt được kết quả cao các kỹ năng học và tự học, kỹ năng thuyết trình , lập kế hoạch và tổ chức công việc , làm việc nhóm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập, các kỹ năng khác giúp các bạn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của bạn bè và thầy cô. Bên cạnh sự đề cao của các bạn về những kỹ năng mềm nói trên trong quá trình học đại học, vẫn còn một số kỹ năng mềm ít được sự quan tâm của các bạn sinh viên.Các kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân, kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo hiểm, và đặc biệt là kỹ năng đàm phán chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của các bạn sinh viên. Các bạn chưa nhận ra vai trò cũng như những lợi ích mà những kỹ năng đó đem lại cho các bạn trong quá trình học đại học. Nếu các bạn hoàn thiện tất cả những kỹ năng đó sẽ giúp các bạn sinh viên đạt được kết quả học tập tốt hơn cũng như tự tin hơn trong cuộc sống. K N đàm phán KN làm việc đồng đội KN giải quyết vấn đề K N giao tiếp ứ ng xử K N thuyết trình KN lắng nghe KN lập k ế hoạch và tổ chứ c công việc KN tư duy s áng tạo và m ạo hiểm KN lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân K N học và tự học 44.50% 43% 78.00% 54.00% 66% 10.32% 69.00% 61.5% 68.5% 76.50% Biểu đồ 2: Kết quả đánh giá của sinh viên Thương Mại về mức độ cần thiết của các kỹ năng trong học tập. 48 Sự nhìn nhận của sinh viên Thương Mại về những kỹ năng cần thiết khi đi làm: Trong học tập là vậy, trong công việc những kỹ năng trên lại càng cần thiết với mỗi cá nhân. Điều này được chính các bạn sinh viên Thương Mại đánh giá qua kết quả khảo sát. Như kỹ năng giao tiếp ứng xử, trong môi trường học tập có 68,5% các bạn sinh viên cho rằng nó cần thiết nhưng có đến 81,5% các bạn cho rằng kỹ năng đó là cần thiết trong công việc tương lai. Không chỉ có kỹ năng giao tiếp mà tầm quan trọng của hầu hết các kỹ năng khác cũng được đánh giá cao hơn. Như kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc 79%, kỹ năng giải quyết vấn đề 70%, kỹ năng đàm phán từ 32% tăng lên 68%, kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo hiểm 65%, kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân 58%. Nhận thức được tầm quan trọng của những kỹ năng mềm trong học tập cũng như công việc, các bạn sinh viên Thương Mại đã rèn luyện được những kỹ năng nào cho bản thân? KN đàm phán K N là m v iệ c đ ồ n g đ ộ i KN g iả i q u y ế t vấ n đ ề K N g ia o tiế p ứ n g xử K N th u y ế t trìn h K N lắ n g n g h e K N lậ p k ế h o ạ c h v à tổ ch ức cô n g v iệ c KN tư d u y sá n g tạ o v à m ạ o h iể m K N lã n h đ ạ o b ả n th â n v à h ìn h ả n h cá n h â n K N h ọ c v à tự h ọ c 2 9 .5 0 % 58% 6 5 .0 0 % 6 0 .0 0 % 6 0 .0 0 % 79% 6 8 .0 0 % 6 3 .0 0 % 7 0 .0 % 8 1 .5 % Biểu đồ 3: Kết quả đánh giá của sinh viên Thương Mại về mức độ cần thiết của các kỹ năng khi đi làm. Tỉ lệ sinh viên cho rằng lý do kỹ năng mềm quan trọng: Giúp dễ xin việc: 54.5% Giúp dễ thăng tiến trong công việc: 57% 49 Giúp kiếm được việc làm có lương cao: 41.5% Giúp tiết kiệm thời gian và sức lực: 51,5% Các lý do khác: 9,5% Tỉ lệ sinh viên cho rằng hình thức lớp học kỹ năng hiệu quả: Lớp học truyền thống, chỉ nghe giảng, thỉnh thoảng đặt câu hỏi: 1.5% Lớp học truyền thống nhưng có kết hợp máy chiếu projector (powerpoint): 11.5% Lớp học có các thiết bị hỗ trợ (giấy bút, tranh ảnh, mô hình): 27% Lớp học dạng sinh hoạt ngoài trời: 38.5% Lớp học trong đó giảng viên tương tác liên tục với sinh viên: 63.5% Tỉ lệ sinh viên cho rằng hình thức dạy và học hiệu quả: Thông qua các trò chơi nhỏ, có lồng ghép các bài giảng về kỹ năng: 53.5% Thông qua làm bài tập đa dạng trên lớp và ở nhà: 17.5% Thông qua sự lồng ghép vào một môn học lý thuyết chuyên môn trên lớp (dưới dạng seminar, đề tài): 32% Thông qua các hoạt động tình nguyện xã hội: 35.5% Tỉ lệ sinh viên cho rằng số lượng người trong 1 lớp học kỹ năng là phù hợp: ít hơn 10 người: 17.5% từ 20 - dưới 30 người: 22% từ 40 - dưới 50 người: 4% từ 10 - dưới 20 người: 41.5% từ 30 - dưới 40 người: 8% từ 50 người trở lên: 1% 50 CHƯƠNG IV: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN THƯƠNG MẠI. 4.1. XU THẾ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN GIAI ĐOẠN 2010-2015 4.1.1. Sự phát triển kinh tế Ngân hàng Thế giới gọi thế kỷ 21 là kỷ nguyên của kinh tế dựa vào kỹ năng. Chúng ta đã bước vào thế kỷ 21 đã 10 năm, nhưng chương trình đào tạo và việc đánh giá năng lực của học sinh, sinh viên vẫn dựa chủ yếu vào kiến thức. Peter M. Senge nói “Vũ khí cạnh tranh mạnh nhất là học nhanh hơn đối thủ”. Rõ ràng muốn tăng cường năng lực cạnh tranh chúng ta không những phải học nhanh mà phải học đúng. Ngày xưa, nhà trường là nơi duy nhất để ta có thể tiếp cận với kiến thức. Thế giới ngày càng phẳng hơn, nhờ internet mọi người đều có thể tiếp cận được thông tin, dữ liệu một cách bình đẳng, mọi lúc, mọi nơi. Kiến thức ngày càng nhiều và từ việc có kiến thức đến thực hiện một công việc để có kết quả cụ thể không phải chỉ có kiến thức là được. Từ biết đến hiểu, đến làm việc chuyên nghiệp với năng suất cao là một khoảng cách rất lớn. Vậy câu hỏi đặt ra là: “Kỹ năng nào là cần thiết cho mỗi con người để thành công trong công việc và cuộc sống?” Nước ta đang trong quá trình toàn cầu hoá hội nhập quốc tế, là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát triền để bảo vệ quyền lợi quốc gia. Cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia ngày càng trở nên quyết liệt, đòi hỏi các nước phải đổi mới công nghệ tăng năng suất lao động, để làm được điều đó đòi hỏi nguồn lực phải có trình độ cao không chỉ là kiến thức chuyên môn mà cả những kỹ năng sống và làm việc. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều lấy giáo dục phổ thông làm nền tảng và coi giáo dục đại học là yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực. Các nước đều xem phát triển giáo dục là nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dành cho giáo dục những đầu tư ưu tiên, đẩy mạnh cải cách giáo dục nhằm giành ưu thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Mục tiêu của giáo dục đại học là đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu xã hội. Chất lượng đầu ra 51 của sản phẩm là yếu tố quyết định đến uy tín thương hiệu của mỗi trường, thì thị trường sử dụng nguồn nhân lực là khâu kiểm nghiệm cuối cùng chất lượng sản phẩm đó. Hệ thống giáo dục, chương trình và phương pháp giáo dục của các quốc gia tiếp tục được thay đổi nhằm xoá bỏ mọi ngăn cách trong nhà trường, rèn luyện kỹ năng, cung cấp các tri thức hiện đại đáp ứng yêu cầu thích nghi những phát sinh của nền kinh tế.Vậy một nguồn nhân lực chất lượng, đáp ứng được nhu cầu xã hội, không chỉ giỏi về kỹ năng chuyên môn mà cần giỏi về kỹ năng mềm. Chính vì vậy, giáo dục nước nhà, cũng như các trường đại học ngày càng quan tâm đến việc đào tạo kỹ năng mềm. Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, và hội nhập quốc tế , nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên vô cùng quan trọng , quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Điều này đòi hỏi giáo dục phải có chiến lược đúng hướng, hợp quy luật, xu thế và xứng tầm thời đại. Sản phẩm đào tạo đại học ngày nay sẽ phải hoạt động trong một môi trường cạnh tranh có tính quốc tế hoá cao. Trong bối cảnh đó, phạm trù “chất lượng đào tạo đại học” phải có sự thay đổi quan trọng theo hướng: vừa phải biết sống hòa hợp với cộng đồng dân tộc và quốc tế, vừa phải có năng lực và bản lĩnh để cạnh tranh tự khẳng định và tự phát triển. Đó là những đòi hỏi quan trọng của giáo dục đại học trong thời kỳ mới, nó cũng là thách thức lớn đối với nền giáo dục của các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam. Hiện nay, trong quá trình tuyển dụng ngoài trình độ chuyên môn của ứng viên thì kỹ năng mềm của ứng viên rất quan trọng là cơ sở để nhà tuyển dụng lựa chọn ứng viên phù hợp nhất. Nhân viên có kỹ năng mềm tốt tạo ra môi trường làm việc năng động và hiệu quả, qua đó góp phần hoàn thành tốt các mục tiêu công ty đề ra. Kỹ năng mềm tạo điều kiện làm việc nhóm hiệu quả, phát triển sự lãnh đạo, giao tiếp và sử dụng thời gian và các nguồn lực khôn ngoan. Như vậy có thể nói kỹ năng mềm có vai trò then chốt đối với thành quả của tổ chức. Chính vì vậy khi tuyển chọn nhân viên các nhà tuyển dụng đặt vai trò của kỹ năng mềm lên 1 vị trí rất quan trọng. 52 4.1.2. Đào tạo của nhà trường Khi nền kinh tế ngày càng cạnh tranh gay gắt mỗi doanh nghiệp đòi hỏi nguồn lực lao động phải có trình độ và kỹ năng cao để có thể đứng vững trên thị trường. Theo xu hướng của nền kinh tế, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã tiến hành chương trình cải cách giáo dục ngay từ phổ thông cơ sở và khá thành công. Các trường cao đẳng, đại học cũng chú tâm hơn trong việc rèn luyện kỹ năng mềm cho sinh viên. Đổi mới cải cách giáo dục bậc cao đẳng, đại học được thể hiện ở việc các trường tiến hành đào tạo theo qui chế tín chỉ bắt người học chủ động rèn luyện các kỹ năng bản thân hơn so với hệ thống đào tạo theo niên chế Trên thế giới ngày nay, tại nhiều nước phát triển, người ta đã thay đổi lại lối học và cách dạy. Phương pháp dạy học là nêu vấn đề để đem ra nghiên cứu thảo luận. Cách dạy này đưa đến phương pháp học tập là buộc người học phải tự đi sưu tầm tài liệu trong các thư viện, trong các trung tâm thông tin, tự thực hành trong các xưởng trường, tự mày mò thí nghiệm trong các phòng thí nghiệm. Và để thảo luận, báo cáo được các điều đã tìm thấy, người học phải vận dụng được óc phân tích, so sánh, phê bình đánh giá các thông tin để đi đến tổng hợp cho mình một nhận định. 4.1.3. Tự bản thân mỗi SV. Chưa bao giờ SV lại quan tâm và đăng kí tham gia các lớp học đào tạo kĩ năng mềm nhiều như hiện nay. Có vẻ như, khái niệm kỹ năng mềm ngày càng trở nên phổ biến và trở thành một yêu cầu quan trọng đối với bất cứ bạn trẻ nào khi cầm hồ sơ xin việc làm. Thời đại ngày nay các bạn trẻ đã nhận thức được vai trò cũng như tầm quan trọng của kỹ năng mềm. Vì thế, song song với nhu cầu cần cải thiện các kĩ năng mềm cho bản thân của bạn trẻ, các trung tâm đào tạo kỹ năng mềm xuất hiện nhiều hơn. Điều đó trở thành tất yếu và là xu hướng phổ biến, bởi ngày càng nhiều bạn trẻ chú ý trang bị kiến thức kỹ năng mềm cho mình, với quan niệm: “Biết nhiều kỹ năng thì cuộc sống sẽ ít gặp khúc mắc, và nếu gặp khúc mắc cũng có cách tháo gỡ khoa học”. Không thể phủ nhận rằng, rất nhiều bạn trẻ sau khi tham gia các khóa học này đều tự tin hơn rất nhiều. Lập trường vững vàng hơn, tư duy nhanh nhạy và sắc bén hơn, cách ứng phó và xử lý các tình huống gặp phải trong cuộc sống cũng hiệu quả hơn. Đặc biệt, biết cách tự quản lý thời gian và kiểm soát bản thân, lên kế hoạch định 53 hướng, nỗ lực học tập và rèn luyện bản thân. Nhiều trung tâm đã lựa chọn phương pháp đào tạo kĩ năng mềm hợp lí, khoa học theo các hình thức phong phú đa dạng mà hiệu quả như học trên mạng, học vận dụng thực hành nhiều hơn… Điểm mạnh nữa là, các chương trình học kỹ năng hoàn toàn không bắt buộc, mà chỉ mang tính chất trang bị, nâng cao kĩ năng sống, vì vậy các học viên được thoải mái lựa chọn. Bên cạnh đó, vẫn còn một số sinh viên do nhận thức chưa đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của kĩ năng mềm trong học tập và hướng nghiệp nên đã đăng kí nhưng chưa tham gia. Nhiều bạn có suy nghĩ rằng các nhà tuyển dụng sẽ ưu ái những bằng cấp có giá trị, mối quan hệ rộng rãi và kĩ năng chuyên môn, bởi vậy đã lơ là việc tự trau dồi kĩ năng mềm cho bản thân. Sai lầm này khiến khi ra trường họ khó xin việc, phải mất khá nhiều thời gian chờ đợi, thậm chí phải đào tạo lại. Ngày nay, đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bởi thế rất cần người tài, cần nguồn nhân lực chất lượng cao, có trình độ và kĩ năng làm việc thông thạo. Để đứng được vào hàng ngũ đó, đòi hỏi những người trẻ phải luôn ra sức phấn đấu.Không chỉ trau dồi cho bản thân những kỹ năng chuyên môn vững chắc các bạn sinh viên ngày nay không ngừng hoàn thiện những kỹ năng mềm cho bản thân. Có đầy đủ kiến thức chuyên môn và những kỹ năng cần thiết các bạn sinh viên luôn tự tin bước vào môi trường làm việc. 4.2. CÁC KẾT LUẬN VÀ PHÁT HIỆN 4.2.1. Các kết luận. 4.2.1.1. Thành công và nguyên nhân Kết quả điều tra ở trên cho thấy phần lớn sinh viên Thương Mại tự đánh giá bản thân mình có được 3 kỹ năng: kỹ năng học và tự học, kỹ năng lắng nghe và kỹ năng làm việc nhóm. Cũng không quá khó hiểu khi sinh viên Thương Mại tự nhận thấy bản thân được trau dồi những kỹ năng đó. Các bạn tự tin khẳng định bản thân trội về những kỹ năng đó một phần nhờ môi trường học tập đã rèn luyện cho các bạn những kỹ năng đó. Học tập theo qui chế tín chỉ khác với cách học niên chế đó là sinh viên không chỉ tới lớp chép bài, ngồi im lặng nghe thầy cô giảng, cố gắng ghi nhớ hết những lời thầy cô nói mà học tập theo niên chế tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải có sự tìm tòi sáng tạo trong phương pháp học tập của mình. Phương thức đào tạo này giúp tăng 54 tính chủ động, sáng tạo của người học thông qua việc sinh viên phải nâng cao tính tự học của bản thân. Chính việc thay đổi từ cách học theo niên chế sang qui chế tín chỉ đã giúp sinh viên rèn luyện, trau dồi thêm những kỹ năng mà cách đào tạo theo niên chế chưa làm được. Giờ đây sinh viên tới lớp không chỉ để ngồi nghe, giảng viên cũng không phải là người đứng nói từ đầu tiết tới cuối tiết mà chính sinh viên mới là trung tâm của buổi học, chính sinh viên mới là người phát biểu xây dựng để bài giảng được thành công. Để làm được điều này sinh viên phải có sự tìm tòi, nghiên cứu về bài học trước khi tới lớp, chính điều này đã tạo nên khả năng học và tự học của sinh viên. Thầy cô với những giờ lên lớp cũng luôn khuyến khích sinh viên thay đổi phương pháp học tập, tạo sự sôi nổi trong giờ học, luôn có sự tương tác giữa thầy và trò. Chính sự hướng dẫn và khuyến khích của thầy cô về phương pháp tự học tập, cách tìm tài liệu và nghiên cứu đã giúp cho sinh viên thích thú hơn trong những giờ học, luôn tự ý thức và đổi mới phương pháp học tập của mình nhằm làm cho những buổi học trên lớp ngày càng thú vị hơn. Vì vậy mặc dù thời lượng những buổi học trên lớp ít hơn so với cách học truyền thống nhưng kết quả học tập của các bạn sinh viên vẫn ngày càng cao và càng làm cho thầy cô yên lòng hơn. Học tập theo hình thức tín chỉ còn giúp các bạn sinh viên có kỹ năng làm việc nhóm tốt hơn. Sinh viên Thương Mại rất tự tin với kỹ năng làm việc nhóm của bản thân, đó chính là kết quả của sự đổi mới phương pháp học tập từ nhà trường và những đòi hỏi đặt ra từ các doanh nghiệp cho công việc sau này của sinh viên khi ra trường. Những năm học ở trường với mỗi môn học là một đề tài thảo luận thú vị; là thành viên của một nhóm mới cùng sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy cô, các bạn sinh viên đã hoàn thành những đề tài của mình rất tốt điều đó được thể hiện qua những giờ thảo luận sôi nổi cuối môn học cùng với đánh giá cao của thầy cô về chất lượng của buổi thảo luận cũng như sự chuẩn bị kỹ lưỡng của các bạn sinh viên cho bài thảo luận của nhóm mình. Để có được bài thảo luận có chất lượng cùng với buổi thảo luận sôi nổi đó đòi hỏi các thành viên trong nhóm của mỗi một môn học phải có sự phân công công việc rõ ràng, có sự đoàn kết nhất trí trong nhóm.Vì học theo tín chỉ mỗi môn học của các bạn sẽ là những người bạn mới những thành viên mới trong một nhóm, nếu không có sự thích ứng nhanh vào môi trường làm việc của nhóm, các thành viên không tôn trọng lẫn nhau và không có tinh thần hợp tác thì cả nhóm sẽ không thể có 55 kết quả cao cho bài thảo luận của nhóm. Như vậy thảo luận nhóm trong mỗi môn học đã góp phần giúp các bạn sinh viên kỹ năng làm việc nhóm hiệu quả nhất, từ đó giúp các bạn tự tin hơn trong những môi trường mới khi đi làm việc. Ngoài kỹ năng học và tự học, kỹ năng làm việc nhóm, sinh viên Thương Mại còn có điểm mạnh về một kỹ năng khác đó là kỹ năng lắng nghe. Có 67,5% sinh viên Thương Mại tự tin về kỹ năng lắng nghe của mình. Kỹ năng lắng nghe - một kỹ năng rất quan trọng trong cuộc sống cũng như trong công việc sau này được các bạn sinh viên Thương Mại rèn luyện khá tốt và khá tự tin với kỹ năng đó của mình. Đây là một lợi thế rất lớn cho các bạn sinh viên Thương Mại, có lẽ các buổi học theo tín chỉ cũng đã giúp các bạn sinh viên rất nhiều trong rèn luyện kỹ năng lắng nghe của mình. Khi thời lượng các buổi học trên lớp rất ít các bạn cần rèn luyện cho bản thân kỹ năng lắng nghe để nắm bắt thông tin tốt nhất, nắm bắt thông tin nào là cần thiết và quan trọng. Trong những giờ thảo luận kỹ năng lắng nghe của các bạn cũng được rèn luyện khi lắng nghe nhóm khác trình bày, đưa ra ý kiến cũng như biết chấp nhận ý kiến của các người khác. Những buổi tham gia hoạt động của đoàn hay đi tình nguyện cũng là những hoạt động giúp các bạn phát triển kỹ năng lắng nghe của mình, biết lắng nghe và chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân nhằm giúp các bạn hoàn thiện bản thân hơn. Bên cạnh những kỹ năng trên những kỹ năng như kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc, kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng giải quyết vấn đề cũng là những kỹ năng được sinh viên Thương Mại luôn quan tâm và không ngừng hoàn thiện. Mặc dù với tỷ lệ không cao như những kỹ năng trên nhưng với môi trường học tập thuận lợi luôn tạo điều kiện cho sinh viên phát triển những kỹ năng mềm cần thiết cho công việc và cuộc sống. Những kỹ năng đó của các bạn sinh viên sẽ trở thành thế mạnh khi các bạn ra trường bước vào môi trường làm việc mới nếu như các bạn không ngừng trau dồi, rèn luyện những kỹ năng đó hàng ngày. 4.2.1.2. Tồn tại và nguyên nhân Sinh viên Thương Mại tự tin với những kỹ năng mạnh của mình và với môi trường học tập như hiện nay ở trường Thương Mại những kỹ năng mềm đó của các bạn sẽ ngày càng hoàn thiện, sẽ giúp các bạn tự tin hơn trong cuộc sống và trong 56 công việc. Tuy nhiên, bên cạnh những kỹ năng mềm được đánh giá là điểm mạnh thì các bạn sinh viên Thương Mại vẫn còn chưa rèn luyện cho mình một số kỹ năng mềm khác.Vậy những kỹ năng đó là những kỹ năng nào? Những kỹ năng mà sinh viên Thương Mại còn yếu đó là những kỹ năng: Kỹ năng sáng tạo và mạo hiểm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân và đặc biệt là kỹ năng đàm phán. Trong những buổi thảo luận trên lớp luôn là cơ hội cho các bạn sinh viên rèn luyện kỹ năng thuyết trình cuả mình. Tuy nhiên có rất ít bạn thấy đây là cơ hội mà đa số lại cho đây là một hình thức “tra tấn”. Sở dĩ các bạn coi đó là hình thức “tra tấn” bởi vì các bạn không tự tin đứng trước đám đông nói về một vấn đề, các bạn run khi đứng trước đám đông và không diễn đạt được những kiến thức của mình.Vậy là các bạn trốn tránh những cơ hội đó trong những buổi thảo luận trên lớp, thay vì những gương mặt mới luôn thay đổi trong khi thuyết trình để rèn luyện những kỹ năng thuyết trình cho riêng mình đồng thời tạo ra sự sôi nổi trong buổi thảo luận thì những gương mặt cũ trong các nhóm vẫn luôn xuất hiện trong các nhóm cùng bài thảo luận của nhóm còn các thành viên khác thì vẫn trốn tránh cơ hội đó với lí do không quen, ngại. Nếu như các bạn không thử sao biết mình không quen. Không tự nhiên bạn có sẵn bất kỳ một kỹ năng nào cả, tất cả đều do tập luyện nhiều, ban đầu có thể sẽ là sự ngượng ngùng, có thể những lần đầu bạn sẽ không thể hiện sự xuất sắc trong cách trình bày, diễn đạt nhưng nếu các bạn quyết tâm, nhất định các bạn sẽ làm rất tốt trong những lần sau. Mạnh dạn lên thuyết trình lại là một yêu cầu liên quan đến một kỹ năng khác mà các bạn sinh viên Thương Mại cũng rất thiếu đó là kỹ năng sáng tạo và mạo hiểm. Đa phần các bạn sinh viên Thương mại không tự tin về kỹ năng này của bản thân. Bởi vì ngay trong một việc đơn giản đó là lên thuyết trình trước lớp, một sự mạo hiểm cần thiết để nắm lấy cơ hội nhưng các bạn cũng ngại, cũng không dám. Hành vi đó đã vô tình làm mất đi việc rèn luyện sự mạo hiểm của bạn. Còn sáng tạo thì sao? Bên cạnh những ý tưởng độc đáo trong những buổi học hay trong những buổi thảo luận với cách làm bài thảo luận thật sáng tạo theo phong cách mới không xa rời bài học, đề tài thảo luận của thầy cô nhưng lại tạo nên sức lôi cuốn kỳ diệu đối với lớp học làm cho buổi học sôi nổi thì vẫn tồn tại đa số những phong cách học tập và làm việc không có chút sáng tạo của các bạn sinh viên. Những giờ lên lớp vẫn áp dụng cách học như phổ 57 thông không có sự sáng tạo trong cách học tập, cho đến những bài thuyết trình, slide thuyết trình đơn điệu, theo một lối mòn nhất định. Nếu không có sự sáng tạo trong phương pháp học tập và tiếp thu bài giảng trên lớp của thầy cô các bạn sẽ mất nhiều thời gian cho việc học tập nhưng kết quả vẫn không cao. Đồng thời những bài thảo luận không có sự sáng tạo trong nội dung cũng như cách trình bày sẽ dễ làm cho buổi thảo luận không gây được sự chú ý và lắng nghe của các bạn sinh viên khác. Kỹ năng sáng tạo và mạo hiểm không chỉ giúp các bạn sinh viên trong việc học tập mà trong cuộc sống thường ngày kỹ năng này còn giúp các bạn tận dụng những cơ hội hiếm khi mới có được. Một cơ hội bạn nhận ra nó nhưng lại không dám nắm bắt nó vì bạn sợ mạo hiểm, bạn không có sự sáng tạo và kết quả bạn đánh mất cơ hội đó. Một kỹ năng cũng rất cần thiết trong cuộc sống và trong công việc của sinh viên khi học tập cũng như trong môi trường làm việc sau này, đó là kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân. Chính bạn quyết định thái độ của mọi người đối với bản thân bạn như thế nào, điều đó được biểu hiện bởi việc bạn thể hiện hình ảnh cá nhân của bạn dưới con mắt mọi người như thế nào. Đó cũng là một kỹ năng mà các bạn sinh viên cũng cần rèn luyện tuy nhiên đa phần các bạn sinh viên Thương Mại lại chưa coi trọng việc rèn luyện kỹ năng này. Có thể lý do là các bạn cảm thấy chưa cần thiết phải thể hiện bản thân trong trường lớp mà sau này đi làm rồi rèn luyện cũng chưa muộn. Tuy nhiên các bạn vẫn chưa thấy hết được tầm quan trọng của kỹ năng này ngay trong môi trường học tập ở trường đại học. Nếu bạn có kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân bạn sẽ có những mối quan hệ bạn bè tốt, có được sự yêu mến tôn trọng của bạn bè. Chỉ những điều đó cũng đã giúp bạn có được một sự thành công nhất định trong cuộc sống. Kỹ năng đàm phán là kỹ năng yếu nhất của các bạn sinh viên Thương Mại. Đây cũng là kỹ năng ít nhận được sự quan tâm của các bạn sinh viên. Nhiều bạn cho rằng đây là kỹ năng chỉ sử dụng cho công việc sau này, thậm chí những công việc liên quan tới vị trí lãnh đạo mới cần dùng vì vậy mà kỹ năng này nhận được rất ít sự quan tâm của các bạn sinh viên. Thực tế kỹ năng này rất cần thiết cho các bạn sinh viên, luôn phục cho cuộc sống của các bạn. Khi bạn cần trao đổi một điều kiện nào đó với một người bạn của bạn để bạn đó đồng ý với điều kiện bạn đưa ra một cách vui vẻ, bạn cũng đang sử dụng kỹ năng đàm phán. Để thực hiện đàm phán với sự vui vẻ của 58 các bên tham gia kỹ năng đàm phán là một kỹ năng không thể thiếu. Các bạn sinh viên Thương Mại cần có cái nhìn rộng hơn về kỹ năng đàm phán, rèn luyện kỹ năng này để phục vụ tốt nhất cho cuộc sống của các bạn. 4.2.2. Các phát hiện. 4.2.2.1. Chính sách đào tạo của nhà trường. Hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ rèn luyện cho các bạn sinh viên rất nhiều các kỹ năng mềm cần thiết. Tuy nhiên đây là hình thức đào tạo mới với nhà trường cũng như với các giảng viên và các bạn sinh viên. Vì vậy chưa phát huy hết được những lợi ích hình thức học theo tín chỉ mang lại cho các bạn sinh viên đặc biệt là phát triển và hoàn thiện những kỹ năng mềm cần thiết như kỹ năng thuyết trình, làm việc nhóm, kỹ năng lắng nghe… Trường Đại Học Thương Mại là một trong số ít các trường đã đưa những môn học về kỹ năng mềm làm môn học chính trong quá trình giảng dạy ở trường.Những môn học đó giúp các bạn sinh viên nhận thức tầm quan trọng cũng như việc rèn luyện những kỹ năng mềm một cách hiệu quả.Tuy nhiên số lượng các tiết học về kỹ năng mềm còn hạn chế, cơ sở vật chất kỹ thuật còn chưa đáp ứng đủ nên lớp học còn khá đông do đó các bạn sinh viên không có nhiều cơ hội để thực hành các kỹ năng mềm ngay trong quá trình học tập dẫn đến có nhiều bạn sinh viên tuy đã được học rất nhiều kỹ năng mềm nhưng các bạn lại không biết vận dụng những kỹ năng đó vào thực tế cuộc sống. Phần lớn các bạn sinh viên học ở trường rất thích học những tiết học về kỹ năng mềm điều đó cho thấy các bạn đã có sự nhận thức nhất định về tầm quan trọng của những kỹ năng mềm tuy nhiên nếu như các lớp học về kỹ năng không đem lại cho các bạn sự vận dụng vào thực tế mà các bạn chỉ biết qua những kỹ năng đó trên lý thuyết, các bạn vẫn sẽ không tự tin với những kỹ năng mà mình đã được đào tạo, vẫn bỡ ngỡ khi giải quyết những tình huống cụ thể trong thực tế. Học nhưng không vận dụng vào được thực tế cuộc sống sẽ khiến các bạn không có hứng thú với việc học tập cũng như rèn luyện những kỹ năng đó. Điều đó sẽ gián tiếp thể hiện sự không hiệu quả trong quá trình giảng dạy của nhà trường về kỹ năng mềm cho các bạn sinh viên. Trung tâm hướng nghiệp sinh viên cung cấp cho các bạn sinh viên cơ hội việc làm cũng như những khóa đào tạo kỹ năng mềm cần thiết. Thông qua những khóa học 59 kỹ năng đó các bạn sinh viên được tiếp xúc với môi trường làm việc ngay khi các bạn đang ngồi trên ghế nhà trường, điều đó không chỉ giúp các bạn rèn luyện tốt các kỹ năng mà còn giúp các bạn không bỡ ngỡ, tự tin hơn trong môi trường làm việc sau này.Song do mới được thành lập trung tâm hướng nghiệp sinh viên vẫn chưa có nhiều các khóa học về kỹ năng mềm và các kỹ năng được đào tạo vẫn chưa có sự đa dạng để đem đến cho các bạn sinh viên nhiều sự lựa chọn. Các bạn sinh viên năm nhất và năm hai dường như vẫn chưa quan tâm nhiều đến các lớp kỹ năng do trung tâm tổ chức đào tạo vơi suy nghĩ các lớp đào tạo kỹ năng đó chưa cần thiết chỉ phù hợp với các bạn sinh viên năm ba và năm cuối.Điều đó dẫn đến việc số lượng các bạn sinh viên quan tâm đến các lớp kỹ năng do trung tâm mở ra còn rất hạn chế. 4.2.2.2. Đội ngũ đào tạo. Hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ là hình thức đào tạo mới của nhà trường nhằm giúp sinh viên chủ động hơn trong việc học tập, thu thập thông tin để hoàn thành tốt nhất môn học. Giảng viên không chỉ giữ nguyên vai trò truyền đạt kiến thức cho sinh viên, giảng viên đóng vai trò rất quan trọng trong việc hướng dẫn sinh viên cách tự học tập thu thập thông tin để đạt được kết quả học tập tốt nhất. Bên cạnh đó học tập theo hình thức tín chỉ có những buổi thảo luận nhóm giúp các bạn sinh viên nhiều kỹ năng quan trọng như thuyết trình, làm việc nhóm, thuyết phục, lắng nghe,… để hoàn thành tốt buổi thảo luận các bạn sinh viên cần rất nhiều sự hướng dẫn của giảng viên về cách làm việc nhóm, cách thuyết trình hay cách lắng nghe và phản biện trong các buổi thảo luận.Nhưng phần lớn các bạn sinh viên vẫn chưa nhận thức được lợi ích mà hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ mang lại cho các bạn một phần do các bạn không định hướng được hình thức đào tạo theo tín chỉ đó tốt như nào? Tạo cho các bạn cơ hội rèn luyện những kỹ năng nào? Để định hướng cho các bạn sinh viên học tập và rèn luyện những kỹ năng mềm trong từng môn học, sự chỉ bảo hướng dẫn của thầy cô cũng như sự liên hệ từ môn học đó với rèn luyện những kỹ năng mềm là không thể thiếu. Các lớp kỹ năng mềm của nhà trường mở ra còn hạn chế một phần do đội ngũ giáo viên của nhà trường chuyên sâu về kỹ năng mềm vẫn còn thiếu. Điều đó dẫn đến 60 chất lượng đào tạo các lớp kỹ năng mềm chưa cao và gây khó khăn trong việc mở rộng đào tạo thêm những kỹ năng mềm khác. 4.2.2.3. Môi trường rèn luyện kỹ năng mềm. Họp nhóm là một công việc quan trọng không thể thiếu trong học tập theo hình thức tín chỉ. Họp nhóm giúp các bạn sinh viên rèn luyện rất nhiều kỹ năng như làm việc nhóm, thuyết trình, thuyết phục, lắng nghe…tuy nhiên hiện nay làm việc nhóm của các bạn sinh viên chủ yếu mang tính hình thức. Phần lớn các buổi họp nhóm qua loa, công việc của nhóm do một vài người trong nhóm đảm nhận thậm chí là do mình nhóm trưởng làm. Những buổi họp nhóm trong chốc lát tại khuân viên trường sẽ không đủ thời gian để các bạn trong nhóm hiểu rõ hơn về đề tài về công việc cũng như mục tiêu chung của cả nhóm dẫn đến hiệu quả làm việc nhóm không cao và cũng không ít bạn vì thế mà luôn vắng mặt trong các buổi họp nhóm. Các hoạt động của đoàn trường, của các câu lạc bộ trong trường tạo điều kiện cho các bạn sinh viên rèn luyện nhiều kỹ năng mềm như giao tiếp, thuyết trình, lắng nghe… mang đến cho các bạn sự tự tin, năng động. Tuy nhiên những hoạt động của đoàn trường ít và không phổ biến rộng đến các bạn sinh viên, chưa tạo điều kiện cũng như khuyến khích để các bạn sinh viên cùng tham gia. Các câu lạc bộ trong trường phần lớn chưa phát triển, có ít hoạt động. 4.2.2.4. Ý thức rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên. Những giờ thảo luận sôi nổi trên lớp đã phản ánh phần nào khả năng làm việc nhóm, thuyết trình của các bạn sinh viên. Tuy nhiên một số lượng không nhỏ các bạn sinh viên vẫn còn chưa quan tâm đúng mức đến những bài tập nhóm được giao, vẫn coi những giờ thảo luận trên lớp không có ý nghĩa, không bổ ích dẫn đến nhiều bạn không chú ý trong giờ thảo luận nhóm. Nguyên nhân dẫn đến nhận thức đó của các bạn sinh viên một phần do các bạn sinh viên chưa nhận thức đúng đắn về cách học tập theo hình thức tín chỉ. Nhiều bạn vẫn cho rằng đó là cách học nhàn hơn bạn có nhiều thời gian rảnh hơn để giải trí mà không phải đến trường học, các bạn vẫn phụ thuộc quá nhiều vào thầy cô giáo không có phương pháp học tập sáng tạo điều đó thể hiện sự thiếu tính chủ động trong cách học tập và thu thập thông tin, kiến thức của các bạn 61 sinh viên. Trong những bài tập nhóm thì vẫn dựa dẫm, ỷ lại vào các bạn khác trong nhóm, tham gia không nhiệt tình vào các bài tập nhóm. Các hoạt động đoàn, tình nguyện hay những hoạt động văn thể do nhà trường tổ chức cũng giúp ích rất nhiều cho các bạn sinh viên trong việc rèn luyện kỹ năng mềm. Tuy nhiên phần lớn các bạn sinh viên lại thiếu sự chủ động và nhiệt tình khi tham gia các hoạt động đó. Nhiều lý do được các bạn sinh viên đưa ra khi không tham gia các hoạt động đó như tốn thời gian, không thích, ngại…điều đó cho thấy sự thiếu chủ động của các bạn sinh viên đồng thời cũng cho thấy các bạn chưa có ý thức rèn luyện những kỹ năng mềm cho bản thân. 4.3. CÁC ĐỀ XUẤT VÀ GIẢI PHÁP 4.3.1. Đề xuất giải pháp nâng cao chính sách đào tạo của nhà trường. Hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ là hình thức đào tạo mới của nhà trường, do vậy trong thời gian tới việc nhà trường ngày càng hoàn thiện và nâng cao hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ sẽ giúp nâng cao kỹ năng mềm của các bạn sinh viên qua hình thức học tập này. Số lượng tiết học và môn học kỹ năng còn hạn chế nên chưa rèn luyện được kỹ năng mềm một cách khoa học nhất cho các bạn sinh viên. Việc tăng thêm các môn học và số tiết học cũng như số lượng các buổi thực hành về kỹ năng mềm sẽ giúp các bạn sinh viên tự tin hơn với những kỹ năng mềm mà bản thân đã được rèn luyện. Một lớp học kỹ năng với số lượng sinh viên ít, cùng phương pháp giảng dạy mới như thông qua các trò chơi nhỏ có lồng ghép các bài giảng về kỹ năng đồng thời với nhiều buổi thực hành sẽ giúp các bạn sinh viên đạt được kết quả tốt nhất trong môn học kỹ năng đó đồng thời luôn có ý thức rèn luyện những kỹ năng mềm đó một cách tốt nhất. Trung tâm hướng nghiệp sinh viên tuy mới được thành lập nhưng đã nhận được sự quan tâm rất lớn từ phía các bạn sinh viên nhất là các bạn sinh viên năm cuối. Trong những năm tiếp theo với sự hoàn thiện và phát triển không ngừng của trung tâm, nhiều khóa học được mở hơn, cùng nhiều môn kỹ năng quan trọng với sinh viên với đối tượng hướng tới là sinh viên trong toàn trường từ năm đầu sẽ là nơi tốt nhất để 62 các bạn sinh viên rèn luyện cho bản thân những kỹ năng mềm một cách nhanh chóng, thuận lợi và hiệu quả. Các lớp học về kỹ năng mềm ngày càng được các bạn sinh viên quan tâm hơn. Những trung tâm đào tạo về kỹ năng mềm với phương pháp dạy sáng tạo , khoa học luôn được đông đảo các bạn sinh viên đăng ký tham gia và hài lòng với chương trình đào tạo đó. Nếu nhà trường liên kết với một vài trung tâm chuyên đào tạo về kỹ năng mềm, qua đó mở các lớp học đào tạo kỹ năng mềm cho các bạn sinh viên ngay tại trường thì các bạn sinh viên sẽ rất mong chờ để tham gia các khóa học. Những khóa học đó vừa tạo điều kiện tốt nhất, mang lại sự an tâm đồng thời rèn luyện kỹ năng cho sinh viên một cách khoa học nhất theo định hướng phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên của nhà trường. 4.3.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao đội ngũ đào tạo. Giảng viên đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các bạn sinh viên có cách rèn luyện kỹ năng mềm hiệu quả thông qua mỗi môn học, tiết học. Giảng viên luôn chú trọng đến việc phát triển kỹ năng mềm cho sinh viên thông qua việc giúp sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng mềm, khuyến khích việc sinh viên có phương pháp học tập hiệu quả sáng tạo, hướng dẫn sinh viên tích cực tham gia công việc nhóm và làm việc nhóm cũng như chủ động nêu lên ý kiến cá nhân qua những tiết học trên lớp và giờ thảo luận. Nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn nhiệt tình của các giảng viên sẽ giúp các bạn sinh viên thích thú hơn trong mỗi môn học và có ý thức hơn trong việc rèn luyện những kỹ năng mềm để không phụ lại sự chỉ bảo tận tâm của các giảng viên. Đội ngủ giảng viên giảng dạy môn kỹ năng mềm có kiến thức chuyên sâu sẽ giúp các bạn sinh viên nắm bắt được tốt hơn, hiểu sâu hơn về môn kỹ năng đó cũng như sẽ có đam mê hơn trong việc rèn luyện những kỹ năng . 4.3.3. Giải pháp nhằm tạo môi trường cho sinh viên rèn luyện kỹ năng mềm. Vì hạn chế thời lượng lên lớp, người dạy sẽ có một quỹ thời gian mở để tiếp xúc, hướng dẫn sinh viên, sẵn sàng giải đáp thắc mắc, trao đổi thêm khi sinh viên cần, kết hợp các kênh liên hệ khác như mail, điện thoại…như vậy sẽ đảm bảo quá trình tự 63 học của sinh viên được thúc đẩy, định hướng đúng mức giúp sinh viên chủ động và tự tin hơn. Họp nhóm là một công việc quan trọng trong học tập theo hình thức tín chỉ, họp nhóm giúp các bạn sinh viên rèn luyện nhiều kỹ năng mềm quan trọng và cần thiết. Vì vậy nếu trong nhà trường có những phòng học dành riêng cho việc họp nhóm, làm bài tập nhóm các bạn trong nhóm sẽ có nhiều thời gian để họp và thảo luận về cách làm bài nhóm từ đó mang lại hiệu quả cao trong làm việc nhóm, giúp các bạn rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm một cách hiệu quả nhất. Các hoạt động của đoàn trường, của các câu lạc bộ trong trường giúp ích rất nhiều cho các bạn sinh viên. Nếu nhà trường có chính sách khuyến khích các câu lạc bộ trong trường phát triển, khen thưởng những câu lạc bộ hoạt động tốt mang lại nhiều cơ hội cho các bạn sinh viên trong trường. Đó sẽ là một biện pháp giúp các bạn sinh viên trong trường tích cực hơn tham gia các hoạt động của các câu lạc bộ từ đó giúp các bạn sinh viên năng động hơn, tự tin hơn với những kỹ năng đã được rèn luyện. Những tân sinh viên còn nhiều bỡ ngỡ với cách học ở trường đại học cũng như chưa nhận thức rõ được kỹ năng mềm là gì? Nó cần thiết như thế nào? Và các bạn có cần rèn luyện những kỹ năng mềm đó hay không? Rèn luyện những kỹ năng mềm đó như thế nào?...Để giúp các tân sinh viên nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng mềm cũng như có định hướng rèn luyện những kỹ năng mềm cho bản thân ngay từ đầu không bỡ ngỡ khi học tập và nghiên cứu trong môi trường mới nhà trường nên tổ chức những buổi hướng dẫn kỹ năng mềm cho tân sinh viên. Trong buổi hướng dẫn này có thể đó là sự chia sẻ của thầy cô, của các anh chị sinh viên có thành tích tốt trong rèn luyện kỹ năng mềm cũng như sự chia sẻ của các doanh nghiệp về những kỹ năng mềm mà doanh nghiệp cần ở các bạn sinh viên. Những buổi hướng dẫn đó chính là động lực, là con đường giúp các bạn tân sinh viên rèn luyện cho bản thân những kỹ năng mềm quan trọng , cần thiết nhanh nhất với sự say mê rèn luyện để phục vụ cho chính công việc của các bạn sau này. Sau những môn học về kỹ năng mềm bổ ích được học ở trường rất nhiều bạn sinh viên muốn vận dụng những kỹ năng đó vào thực tế cuộc sống. Tuy vậy giữa lý 64 thuyết và thực hành có nhiều sự khác nhau khiến các bạn sinh viên gặp khó khăn rất nhiều trong việc áp dụng những kỹ năng đã được học, rèn luyện vào thực tế. Những chương trình tập huấn kỹ năng giành cho các bạn sinh viên có lẽ sẽ giúp các bạn sinh viên rất nhiều trong việc áp dụng lý thuyết vào thực hành. Trong những buổi tập huấn đưa ra các tình huống cụ thể mà các bạn sinh viên sẽ gặp phải trong môi trường làm việc sau này và yêu cầu các bạn giải quyết tình huống với những kỹ năng đã học được. Đồng thời các buổi tập huấn cũng là lúc các bạn sinh viên được tiếp xúc học hỏi kinh nghiệm từ các doanh nghiệp cụ thể và những kỹ năng mà các chủ doanh nghiệp áp dụng để xây dựng và phát triển công ty của mình….Những buổi tập huấn như vậy đảm bảo sinh viên trong môi trường làm việc sau này sẽ phát huy và vận dụng một cách tốt nhất những kỹ năng mềm đã được học và rèn luyện. 4.3.4. Giải pháp nhằm nâng cao ý thức rèn luyện kỹ năng mềm của sinh viên. Giảng viên không chỉ giúp các bạn sinh viên có phương pháp học tập hiệu quả để nắm vững chuyên môn. Giảng viên còn là những người hướng dẫn tốt nhất giúp sinh viên nhận thức cũng như rèn luyện kỹ năng mềm một cách hiệu quả. Đào tạo theo hình thức tín chỉ mỗi môn học đều tạo cơ hội cho các bạn sinh viên rèn luyện những kỹ năng mềm cần thiết, tuy vậy nếu không có sự chỉ bảo và hướng dẫn tận tình của các thầy cô về cách thức làm việc nhóm, phương pháp thuyết trình, tham gia thảo luận trên lớp và ngay cả việc tự học của các bạn sinh viên thì các bạn sinh viên sẽ gặp nhiều khó khăn và không đạt được kết quả cao trong học tập cũng như rèn luyện các kỹ năng. Nhấn mạnh của thầy cô về tầm quan trọng kỹ năng mềm và việc rèn luyện những kỹ năng đó của sinh viên thông qua phương pháp học tập mỗi môn học sẽ giúp sinh viên nhận thức và rèn luyện những kỹ năng mềm tốt nhất. Hiện tại có rất nhiều sách nói về kỹ năng mềm cũng như việc rèn luyện kỹ năng mềm. Trong những cuốn sách tầm quan trọng của những kỹ năng mềm luôn được đưa ra cùng cách áp dụng vào thực tế cuộc sống. Do vậy tìm đọc những cuốn sách viết về kỹ năng mềm sẽ giúp các bạn nhận thức rõ nhất tầm quan trọng của kỹ năng mềm cũng như phương pháp rèn luyện kỹ năng tốt nhất. Kỹ năng mềm rất quan trọng với các bạn sinh viên trong công việc và cuộc sống. Nhưng hiện tại các bạn sinh viên lại chú ý rất ít đến tầm quan trọng của kỹ năng 65 mềm cũng như việc rèn luyện kỹ năng mềm cho bản thân. Không ít suy nghĩ của các bạn sinh viên cho rằng kỹ năng mềm là tự có và tự hoàn thiện, hay kỹ năng mềm là tài năng bẩm sinh của mỗi người. Những buổi hội thảo về kỹ năng mềm và tầm quan trọng của kỹ năng mềm do các bạn sinh viên trong trường tự tổ chức sẽ giúp các bạn sinh viên có định hướng tốt trong việc rèn luyện kỹ năng mềm của bản thân. Những buổi hội thảo khi sinh viên được giao lưu trực tiếp với các doanh nghiệp sẽ là cơ hội để các bạn nhận ra tầm quan trọng của kỹ năng mềm trong môi trường làm việc sau này. Sinh viên trong tất cả các trường đại học, cao đẳng đều đang không ngừng hoàn thiện những kỹ năng mềm của bản thân. Do vậy những buổi giao lưu về rèn luyện và phát triển kỹ năng mềm cùng sinh viên các trường đại học, cao đẳng sẽ giúp các bạn sinh viên nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của kỹ năng mềm, học hỏi được những kinh nghiệm cũng như cách thức và phương pháp học tập và rèn luyện kỹ năng mềm một cách khoa học và hiệu quả nhất. 66 KẾT LUẬN Như vậy với yêu cầu đặt ra trong cuộc sống và trong sự phát triển kinh tế đã cho thấy được tầm quan trọng của các kỹ năng mềm. Kỹ năng mềm giúp sinh viên tự tin, năng động giải quyết vấn đề một cách dễ dàng hơn để thành công trong công việc cũng như làm chủ được cuộc sống của mình. Kỹ năng mềm quan trọng là thế song thuật ngữ “kỹ năng mềm” vẫn còn là điều khá mới mẻ với nhiều bạn sinh viên. Những năm gần đây hệ thống giáo dục bậc đại học, cao đẳng đã áp dụng hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ nhằm giúp các bạn sinh viên chủ động hơn trong quá trình học tập qua đó gián tiếp rèn luyện cho các bạn sinh viên những kỹ năng mềm cần thiết. Nhưng do một số yếu tố khách quan và chủ quan đã khiến việc đào tạo kỹ năng mềm chưa thực sự đạt được kết quả như mong muốn. Bên cạnh những chính sách đào tạo từ phía nhà trường sinh viên cũng cần nhận thức về việc rèn luyện kỹ năng mềm cho bản thân để có thể nâng cao năng lực, trình độ góp phần tạo ra nguồn lực trí thức giúp đất nước phát triển nhanh theo kịp tốc độ với các nước trong khu vực và trên thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO Các sách tham khảo. 1.Debra Fine. Small talk. NXB lao động xã hội 2010. 2. Hoàng Văn Kình, Nguyễn Văn Cát, Đào Thế Sơn. Đổi mới phương pháp giảng dạy bằng tăng cường sử dụng mô hình và sơ đồ trong môn học kinh tế quốc tế. Trường Đại Học Thương Mại 2003. 3. Keith Ferrazzi. Ai che lưng cho bạn. Nhà xuất bản trẻ 2010. 4. Leil Lowndes. Nghệ thuật giao tiếp để thành công: 92 thủ thuật giúp bạn trở thành bậc thầy trong giao tiếp. NXB Lao động xã hội 2009. 5. Lê Thị Loan , Nguyễn Thị Phi Yến, Dương Thị Liễu. Vai trò của giáo dục đạo đức cho sinh viên đối với việc phát huy nguồn lực con người trong các doanh nghiệp thương mại ở Việt Nam hiện nay. Trường Đại Học Thương Mại 2001. 6. Patricia M. Buhler. Tự học kỹ năng quản lý trong 24 giờ. NXB Thống kê 2002. 7. Richard Hall. Thật đơn giản thuyết trình. NXB Lao động xã hội 2009. 8. Ros Jay. Thật đơn giản phỏng vấn tuyển dụng. NXB lao động xã hội 2009. 9. Trần Hùng, Hoàng Văn Lâm, Đàm Gia Mạnh. Xây dựng các trò chơi kinh doanh để vận dụng vào việc giảng dạy các chuyên ngành quản trị kinh doanh. Trường Đại Học Thương Mại 2002. Các trang web tham khảo 1.http://tamviet.edu.vn/Desktop.aspx/Trang-chu/ 2. http://kynangsong.org/forum.php 3. http://kynang.7pop.net/ 4. http://www.webkynang.com/wp-signup.php?new=webkynang.com 5. http://kynangmem.com/ PHỤ LỤC PHIẾU KHẢO SÁT THÔNG TIN VỀ KỸ NĂNG MỀM CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI. 1. Bạn đang là sinh viên năm thứ mấy □ Năm 1 □ Năm 2 □ Năm 3 □ Năm 4 □ Năm 5 □ Đã tốt nghiệp 2. Theo bạn, bạn cho rằng bản thân mình đã có được kỹ năng nào rồi? (bạn có thể chọn nhiều hơn 1 kỹ năng) □ Kỹ năng học và tự học □ Kỹ năng thuyết trình □ Kỹ năng lãnh đạo bản thân và □ Kỹ năng giao tiếp ứng xử hình ảnh cá nhân □ Kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo □ Kỹ năng giải quyết vấn đề hiểm □ Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức □ Kỹ năng làm việc đồng công việc đội □ Kỹ năng lắng nghe □ Kỹ năng đàm phán Kỹ năng khác: 3. Theo bạn, kỹ năng nào cần thiết trong thời gian sinh viên học đại học? (bạn có thể chọn nhiều hơn 1 kỹ năng) □ Kỹ năng học và tự học □ Kỹ năng thuyết trình □ Kỹ năng lãnh đạo bản thân và □ Kỹ năng giao tiếp ứng xử hình ảnh cá nhân □ Kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo □ Kỹ năng giải quyết vấn đề hiểm □ Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức □ Kỹ năng làm việc đồng công việc đội □ Kỹ năng lắng nghe □ Kỹ năng đàm phán Kỹ năng khác: 4. Theo bạn kỹ năng nào cần thiết khi đi làm việc? (bạn có thể chọn nhiều hơn 1 kỹ năng) □ Kỹ năng học và tự học □ Kỹ năng thuyết trình □ Kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình □ Kỹ năng giao tiếp ảnh cá nhân ứng xử □ Kỹ năng tư duy sáng tạo và mạo □ Kỹ năng giải quyết hiểm vấn đề □ Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức □ Kỹ năng làm việc công việc đồng đội □ Kỹ năng lắng nghe □ Kỹ năng đàm phán Kỹ năng khác: 5. Theo bạn, tại sao kỹ năng mềm lại quan trọng? (bạn có thể chọn nhiều hơn 1 lựa chọn) □ Giúp dễ xin việc làm □ Giúp kiếm được việc làm có lương cao □ Giúp dễ thăng tiến trong công việc □ Giúp tiết kiệm thời gian và sức lực Lý do khác: 6. Theo bạn, hình thức lớp học kỹ năng như thế nào là hiệu quả? □ Lớp học truyền thống, chỉ nghe giảng, thỉnh thoảng đặt câu hỏi □ Lớp học truyền thống nhưng có kết hợp máy chiếu projector (powerpoint) □ Lớp học có các thiết bị hỗ trợ (giấy bút, tranh ảnh, mô hình) □ Lớp học dạng sinh hoạt ngoài trời □ Lớp học trong đó giảng viên tương tác liên tục với sinh viên 7. Theo bạn, hình thức dạy và học kỹ năng như thế nào là hiệu quả? □ Thông qua các trò chơi nhỏ, có lồng ghép các bài giảng về kỹ năng □ Thông qua làm bài tập đa dạng trên lớp và ở nhà □ Thông qua sự lồng ghép vào một môn học lý thuyết chuyên môn trên lớp (dưới dạng seminar, đề tài) □ Thông qua các hoạt động tình nguyện xã hội 8. Theo bạn, lớp học kỹ năng bao nhiêu người là phù hợp? □ ít hơn 10 người □ từ 10 - dưới 20 người □ từ 20 - dưới 30 người □ từ 30 - dưới 40 người □ từ 40 - dưới 50 người □ từ 50 người trở lên 9. Theo bạn, làm sao biết được là mình đã có kỹ năng nào đó rồi? □ Tự cảm nhận □ Trong quá trình làm việc, tự cảm nhận □ Dựa trên kết quả công việc đã đạt được □ Theo đánh giá, nhận xét của những người lớn hơn mình 10. Theo bạn, cách nào để kỹ năng của mình trở nên thành thạo? □ Chủ động áp dụng kỹ năng vào công việc hàng ngày □ Học và luyện tập với giảng viên thường xuyên □ Đọc sách, báo, internet và phân tích các tình huống thực tế □ Có môi trường bắt buộc mình phải sử dụng đến kỹ năng 11. Theo bạn, học phí của một khóa học khoảng bao nhiêu thì bạn chấp nhận theo học? ................................................................................................................................................ 12. Bạn đã từng tham gia học lớp kỹ năng mềm nào chưa? □ Rồi □ Chưa 13. Nếu có một chương trình tập huấn kỹ năng mềm cho Sinh viên, bạn mong muốn chương trình đó về nội dung và hình thức sẽ như thế nào? ................................................................................................................................................ ................................................................................................................................................ ................................................................................................................................................


Comments

Copyright © 2025 UPDOCS Inc.