1. Lời ghi chú đầu sách Trong cuốn chuyện tình giải trí này, phần bối cảnh có một vài chi tiết nhắc đến những sai sót ấu trĩ của một thời. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng với công cuộc đổi mới lớn lao, chúng ta đã khắc phục về cơ bản. Nhìn lại để càng thấy giá trị của ngày hôm nay… Tác giả Ngôi biệt thự “Cổ phong’ chìm trong nắng hanh chiều vàng óng. Không gian yên ắng, chỉ có tiếng chim sẻ lích chích trên mái ngói rêu mốc, tiếng lá rạn khô lép bép trong vườn. Ngôi nhà có từ đầu thế kỷ, tuy lúc đó người ta vẫn phải dùng vôi trộn mật, giấy bản để đắp nổi hoa văn trang trí, nhưng không phải là hình long ly quy phượng nữa mà là đường kỷ hà hình học, lá hoa cách điệu. Trên chiếc ghế đá cạnh hòn non bộ cạn khô nước, đầy lá vàng phủ ngập, có một ông già đang ngồi trầm ngâm, mắt nhìn về một cái gì vô hình. Một cô gái vận đồ thể thao trắng chăm chú vẽ chân dung ông trên khuôn lụa. Bức vẽ sắp hoàn thành. Ông già trên lụa có mái tóc bạc, gương mặt nhuốm màu thời gian, đôi mắt trầm tĩnh, cặp môi như sắp thốt lên một điều gì… Cô gái vẽ kiên trì, mê mải. Gương mặt đẹp và hơi ngây ngây, trắng như bột nặn của cô sáng lên dưới nắng. Mắt cô và mắt công già trên lụa cứ nhìn nhau và như đang điều khiển nhau một cái gì đó. Ông già trên ghế đá thì vẫn ngồi bất động. Một con kiến đen bò qua những cuống lá vàng còn thơm mùi nhựa leo lên vạt áo ông. Hình thù con kiến hằn rõ giữa vạt áo trắng mênh mông, chính điều đó làm nó hoảng sợ, vội vàng bỏ trốn. Nắng trong veo, ngân lại và rung lên nhè nhẹ. Nắng sưởi khô rất nhanh nét sơn dầu. Với đường vẽ chính xác, tài hoa, cứ sau mỗi nét vờn nhỏ, gương mặt ông già lại hiện lên rõ hơn, và càng gần đến phút giây đôi môi kia sẽ bật ra điều mà ông muốn nói… * * * Đêm đã khuya, mọi âm thanh của thành phố sôi động đã ngừng lại, giờ này chỉ còn thức những người cảnh sát đi tuần tra, những ông già gác đêm công sở, những hạ sĩ công an ngáp dài bên bục gỗ cửa sứ quán. Nhưng ông Huy chưa ngủ; gióng như tất cả mọi đêm, từ lâu quen rồi. Đêm yên ắng, một tiếng lá sột soạt ngoài vườn vọng vào cũng nghe rõ. Ông bắt đầu đi lang thang trong các căn phòng của mình. Thói quen như thế… Ông Huy không đọc sách thâu đêm như những “con mọt sách”. Kệ sách kín tường nhưng người ta đâu có phải là con kiến để bò từ dòng này sang dòng kia, ngửi mùi mực in độc hại, hít bụi xentuylô ẩm mốc. 2. Ông chỉ đọc những gì mà ở đấy không thấy có sự dối trá, lừa bịp, ở đó phải là các chân lý đích thực, nhờ đó mà giống người tồn tại được trên mặt đất này, không bị diệt vong như loài khổng long cổ đại. Tất nhiên để nhận biết chân lý khó như đãi cả bãi cát, lấy ít vẩy vàng. Nhưng mặt khác chân lý cũng khó bị khoả lấp như hạt tốt vùi trong đất lành, sớm muộn sẽ vươn mầm xanh lá. Hình như đến 90% số lượng trên kệ sách là đồ đáng bỏ đi. Cũng như đến 9/10 chương trình ti vi, rađiô, bằng nhạc là vô dụng. Cho nên tốt nhất là để cho đêm im lặng, cho tiếng sương rơi tí tách, cho lá xào xạc, và ông lại đi lang thang trong các phòng của mình mà ngẫm nghĩ. Sự im lặng ấy giống như sự im lặng của hạt vùi trong đất. Ông bắt đầu xuấ phát từ phòng khách. Cái phòng khách có bộ sa lông gỗ gụ trạm trổ có từ thời cậu Cử luật học Vũ Quang Huy mới tốt nghiệp ở Pari về, đặt cạnh chiếc tủ gỗ tạp vênh váo của bà Đức Hạnh (vợ ông) để bà đựng các hồ sơ bảo mật cực kỳ quan trọng. Tại phòng khách này, ông đã tiếp bao nhiêu người… Có người là yếu nhân chính phủ đến có xe công an hộ tống, nhưng hồ hởi giản dị thân tình ôm ông khi ông còn đứng trên bục cao tam cấp, và sôi nổi những câu chuyện liên quan đến vận mạng đất nước. Chính trên chiếc sa lông này, vị yếu nhân xưa đã ngồi khi còn là chàng thanh niên con nhà quyền quý, bỏ học, đi làm cách mạng, sống cải trang, đêm đêm đến đây viết những bài xã luận cách mạng bốc lửa đăng trên báo chí bí mật. Những điều tưởng như không tưởng ấy, vậy mà sau bao nhiêu năn, đã thành hiện thực. Ông Huy qua phòng kế bên. Nơi này, mấy năm trước, Dục - con trai ông và Trà Mi (vợ nó) đã sống. Nhưng bây giờ mạng nhện chăng trên bàn trang điểm. Chiếc gối cưới cứt chuột nhắt vãi như đậu đen trên hình thêu chữ Hỷ. Thỏi son môi còn sót khô quắt. Từ phòng con trai, ông sang phòng con gái. Trinh - đứa con gương mặt giống ông như tạc. Con bé xung khắc với mẹ, luôn đóng chặt cửa để nghe nhạc Rốc một mình, luôn phản đối các quyết định độc đoán của mẹ bằng phương pháp cổ điển của các nhà cách mạng là… tuyệt thực. Bất chấp lời đay nghiến của mẹ, con bé thường mặt những chiếc mini juýp, mở nhạc nhẩy điscô, khiến bà mẹ đau lòng tê tái bất lực trước sự “suy đồi” đạo đức ngay ở trong nhà mình. Bà thực lòng muốn giáo dục con bằng cách bắt nó lập một “sổ tu dưỡng”, luôn tự mình viết kiểm điểm trên giấy (giống như một mình sám hối trước chúa); bắt nó đi sinh hoạt chi đoàn học tâp các tài liệu, nghị quyết chính trị v.v… và v.v… Con bé nghiên cứu và giảng dậy ở trường Đại học kiến trúc. Còn sót đây trên bàn làm việc của nó cac bản vẽ thiết kế đô thị trông như hình vẽ mê cung, các đĩa nhạc Rốc với hình cô ca sĩ tóc “xì tôn” xù ra như tổ quạ mà dân gian mình xưa cho là cực xấu thì giờ lại thành mốt quốc tế. Có con nhện bọ gì đó làm tổ êm ấm trong cái lọ pha lê Tiệp mà xưa nó thường cắm hoa hồng bạch (chỉ cắm hoa hồng bạch). Ông Huy sang đến phòng vợ, dừng lại lâu hơn một chút. Ảnh bà nhìn ông trên tường, mặt khắc khổ nghiêm nghị; cái nhìn của bà nữ tướng trước hàng quân, vẻ nghiệt ngã của một dạng đàn bà làm thủ trưởng đàn ông. Con người rè bỉu các thứ nữ trang, coi son phấn là biểu tượng đĩ điếm, mốt thời trang là sự suy đồi. Đó là một người đàn bà không biết đến các trạng thái bâng khuâng thổn thức là gì; chỉ có sự hăm hở sục sôi, sắt đá, không lủi bước, và quyết chiến thắng. Một chiếc lược gỗ, chiếc áo lõi bông, đôi dép cao su đủ quai, một chiếc khăn len vuông, những chồng cặp ba dây đầy tài liệu chính trị, một sổ tiết kiện gửi tiền đều đặn, dù tiền mất giá hàng tuần 3. cũng mặc. Đó là tất cả những gì bà ngã xuống ngoài mặt trận, không về nữa, để lại cho ông trong chiếc tápđờnuy gỗ bao bì kê ngay đầu giường. Thường thì ông Huy lên gác hai vào phòng “lưu niệm gia đình” trời đã quá nửa đêm. Tắt công tắc điện, thay vào đó ông thắp giá nến ba mươi ngọn. Cái giá bằng đồng trạm trổ cầu kỳ đúc ở Pari từ thế kỷ trước, vẫn dùng trong các phòng khách của các công tước thời xưa... Dưới ánh nến, trong khung kính sơn son thếp vàng hiện lên tấm hình quan Nghè Múc – cha ông – mũ mãng cân đai bá tử oai vệ, nhưng mặt non choẹt, búng ra sữa (ông đỗ khi còn thiếu niên). Cam đoan rằng quan này bụng đầy chữ nghĩa thánh hiền, nhưng đêm ngủ vẫn thích rúc đầu vào nách mẹ. Những bức ảnh khác, trông quan Nghè lại “già” quá. Ngoài ba mươi mà để râu dài như ông cụ, ngồi ghế Án sát giữa công đường. Đôi mắt quan Án cương trực nổi tiếng một thời như vẫn lấp lánh. Cái giai thoại về ông đến bây giờ dân tỉnh B.H còn kể. Trong tiếc Cáttóduydê, quan công sứ Pháp chiêu đãi, ngài Án đã rút mùi xoa lau tay sau khi bắt tay quan công sứ Pháp. Cũng là một thứ khí tiết “nho gàn”, “mất lịch sự” nhưng dù sao không phải chuyện đùa... Ông Huy nhìn sang bức ảnh năm anh em chụp trước cửa Dinh Án sát. Tất cả mặc soóc trắng, kể cả em gái út Thu Hằng. Mới đấy với đấy mà bây giờ mỗi người một phương trời. Có lẽ không gia đình nào lại ly tán như gia đình này. Châu Âu chưa đủ, còn cả châu Mỹ, Tây Âu chưa đủ, còn cả Bắc Âu. Thư Thu Hằng nói mỗi lần họp gia đình ở Pari thì những đứa cháu chung người ông nội, ngoại là cụ Nghè Múc, nhưng nói bốn thứ tiếng khác nhau. Đứa nói tiếng Mỹ, đứa nói tiếng Đức, đứa nói tiếng Pháp, đứa nói tiếng Bỉ, không đứa nào hiểu đứa nào, phải chờ phiên dịch... Thật buồn cười!... Sau phòng lưu niệm, ông Huy xuống vườn. Vườn nhỏ nhưng đủ loại cây cảnh: phòng, liễu, đào, mai, hồng, mộc, tùng, cúc. Cây xưa chỉ là cây, liễu mai tùng chỉ là liễu mai tùng, nhưng từ ngày ông về già, bà Đức Hạnh chết, Dục và Trinh đi ở nơi khác... thì chúng không còn “chỉ là cây” nữa. Ông đi khắp vườn, không bỏ sót gốc nào, tay vịn vào chúng, cạy ít vỏ nhựa, ngắt một chiếc lá, hoặc chỉ ngước lên nhìn vòm ngọn sương rơi tí tách. Ông thích những cơn gió nhẹ đia qua làm cả vườn đêm nói thì thừo; những chiếc lá vàng lả tả rụng xuống vai. Đêm nào ông cũng ngắt một trái gì đó trong vườn, vừa đi vừa nhấm nháp. Có khi là trái táo chín thơm lựng; nhưng khi lại là một quả hồng xanh. Không có quả, nhấp búp lá, cánh hoa hồng bạch. Có đêm nửa tỉnh nửa mê, ông thấy mình trẻ lại thành chàng thư sinh lạc vào trại cây bỏ hoang góc kinh thành trong truyện Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Ngày xưa ông đã dịch truyện đó in ở báo Pari. Lúc đó ông còn trẻ, đang yêu, háo hức ý tưởng xây dựng tương lai văn hoá dân tộc. Câu chuyện chàng thư sinh với cô Liễu, Đào, Mai - hồn của những cây liễu đào mai hư hư thực thực, vừa đẹp vừa ma quái, sao mà ông thấy thật hay, thật hiện đại, chẳng kém gì những sáng tác hiện thực huyền ảo nổi tiếng bây giờ. Bác sĩ Vũ Tuần - người vẫn chữa bệnh cho ông, sau khi nghe kể giấc mơ về Liễu Đào Mai đã bảo ông nên chặt những cây đó đi, nhưng ông không nghe. Và đêm đêm ông vẫn cứ tha thẩn bên nó cho đến khi thần kinh chìm vào giấc ngủ mờ mịt. Nhiều hôm sáng ra, người ta thấy ông thiêm thiếp say trên thảm lá vàng, mấy con bướm trắng tinh thì cứ bay dập dờn trên mái tóc bạc. * 4. * * Ông Huy tỉnh dậy lúc mặt trời rọi sáng trưng rèm đăng ten trắng bên cửa sổ. Cô chủ quán đã bưng vào một ly cà phê thơm phức (theo hợp đồng 365 ngày = 365 ly). Ông ghiền cà phê từ nhỏ. Không có, cả ngày uể oải. Cùng với thói quen uống cà phê là thói quen cắm hoa, thay khăn giải bàn phòng khách, ăn mặc chỉnh tề, đồng bộ. Sớm nay, chủ nhật có việc. Ông Huy dắt xe đạp ra cổng. Lối này xưa là lối chiếc Pôbêđa màu kem lăn chầm chậm tới thềm tam cấp mỗi buổi sáng. Hai người đến “sở” với sự tương phản: ông chững chạc như bộ trưởng ngoại giao tay xách gặp Đíplôm mát khoá kền bóng nhoáng; bà thì tóc búi, áo gụ, tay ôm chồng cặp ba dây... Bây giờ thì lối cỏ um tùm trong kẽ gạch, lâu ngày không ai đặt chân tới. Cánh cổng sắt bản lề han rỉ. Thùng thư gia đình xưa chật ních sách báo, thư từ, giờ nứt nẻ trống huyếch hoác. Dặng rào sắt uốn hoa văn chữ triện, màu sơn phai bạc, hoen rỉ. Ông Huy đứng một lúc, ngần ngại xuống đường. Lâu mới đi xe đạp, đường đông, thấy khá vất vả. Khu cổng ô Tây, xưa là ngoại thành, giờ thành khu chung cư. Nhà năm tầng ở loét xấu xí. Chẳng ra phố, chẳng thành làng. Sao không vạch đại lộ, xây nhà hai bên, cửa hàng cửa hiệu cho ra vẻ. Ông Huy vừa ngắm nhìn khu chung cư tồi tàn vừa ngẫm nghĩ. Lạ nhất là lề thói của thành phố: chỗ nào cũng bảo đắt đỏ đã trong bản đồ quy hoạch. Ai muốn làm nhà khó khăn vô chừng. Chuyển chỗ ở trong thành phố khó như từ hành tinh này đến hành tinh khác vì trăm thứ giấy tờ. Khu phố vườn caay và hàng rào sắt vây quanh, thì băm nát ra, vẩy giấy dầu cót ép cho vài chục hộ trong một nhà, phá tan mọi bố cục kiến trúc. Còn khu mới thì chỉ có “nhà chung cư” mà không có “phố”. Cả tầng chung nhau một hố xí. Ban công ốp lồng sắt chống trộm cứ như chuồng thú. Tại sao không thế này, tại sao lại thế kia? Cuộc đời cứ mặc xác những câu “tại sao” đau khổ của những người như ông – Ông bất lực nghĩ. Và chính điều đó làm ông cảm thấy mình ở ngoài lề cuộc sống. Vất vả lắm ông mới tìm thấy căn hộ của Hảo. Một chú bé linh lợi, nhưng mặt già câng reo to: - A, ông ngoại. - Thông, bố có nhà không? - Bố cháu xuống tầng một xách nước sắp về. Hừ, một ông hàm thứ trưởng – ngang quan tả thị lang ngày xưa, ở cái khu chung cư này, cũng “mắm sốt” tất – Ông Huy bật cười. Hảo mới chuyển công tác từ tỉnh ra trung ương được một năm nay. Nhà cửa tuềnh toàng, trang trí trên tường là mấy tờ tranh cổ động vượt mức kế hoạch 5 năm, ghế bàn gỗ tạp mọt kêu ken két. Thông đi pha trà mời ông ngoại. Gương mặt nó thiếu sự tươi non hồn nhiên của tuổi thơ. Không trách được. Đứa bé nào trong gia đình bố mẹ ly dị nhau chả thế. Nhưng thằng Thông dòng dõi “trâm anh thế phiệt”, chắt ngoại quan Nghè Múc, bố là cán bộ cao cấp, mẹ là trí thức, ông ngoại là nhân sĩ, bà ngoại là thủ trưởng cấp cao, mà sao mặt mũi có gì tối tăm như con nhà mò cua bắt ốc. 5. Ông giật mình thấy cái “gien” của bà nội nó – cô tá điền - đầy tớ; phải, chỉ một mình cái gien ấy mà át được hết các gien “trâm anh thế phiệt” kia! Nó có gì giống bố nó ngày xưa? Ông Huy không còn nhớ gì lắm về buổi đầu gặp bố nó - thằng bé Hảo đầu gio mặt muội ở Bãi Dẻ bên hồ. Hôm ấy cậu cử nhân luật Vũ Quang Huy vừa ở Pari về nước, quyết định tới đồn điền trung du của cha, nghỉ ngơi ngắm cảnh. Cậu Cử thích cảnh những dải đồi thấp, toàn dẻ la đà, những cô thôn nữ xinh đẹp má hồng răng đen, khăn mỏ quạ đi nhặt dẻ nghiêng nón e thẹn “chào cậu Cử ạ” rồi ù té chạy khúc khích cười. Cậu thích mặc đồ thể thao trắng, cưỡi ngựa trắng phi như bay bên những sườn đồi cỏ xanh mướt, rồi bất thần xuất hiện bên hồ làm những cô thôn nữ đang tắm ở đấy ùa chạy như đàn thiên nga gặp đại bàng. Cậu thích vác khẩu súng săn, đi sâu vào rừng, lang thang tìm những con chim lông đẹp, những con chồn sóc có bộ đuôi quý giá. Cậu cần có một “tiểu đồng” hầu hạ. Người ta dẫn thằng bé Hảo đến. Mặt mũi nó đáng ghét, nhưng nó hoạt bát, thông thạo, tinh khôn. - Bố ơi, ông ngoại đến - Tiếng thằng Thông ngoài hành lang làm ông Huy giật mình. Hảo đặt hai xô nước vào góc, khẽ gật đầu chào. - Tôi đến nhờ anh một việc – Ông Huy vụt đứng dậy với dáng điệu của một tá điền già đến văn phòng “quan” quản lý đồn điền Trại Dẻ mà xưa ông từng trông thấy nhiều lần, không ngờ đó lại là giờ phút “kiến tập”. - Bác ngồi xơi nước đã. Dạo này bác có khoẻ không - Hảo muốn tỏ ra thân tình nhưng gương mặt khô lạnh, nụ cười gượng gạo vẫn làm cho người đối thoại cảm thấy xa cách. Còn gì trớ trêu hơn là phải đến nhờ vả một ông “cựu con rể” mà con gái mình đã ly dị người ta. Ông sượng sùng lúng túng. Nhưng không có cách nào khác. Ngoài Hảo ra, không ai có thể giúp ông việc này. Nghe nói có “công việc”, Hải lại bàn mở sổ tay, sẵn sàng ghi ghép, phản xạ tự nhiên, thói quen của người mà thời gian cuộc đời trôi trong các hội nghị nhiều hơn thời gian đời thường. - Anh Hảo xem thư đây – Ông Huy rút ra những chiếc phong bì lạ mắt - Bốn đứa em tôi ở nước ngoài vừa gửi về... Thực ra tôi không muốn... Nhưng họ hối thúc. Tôi cảm thấy năm nay đã yếu, sợ không còn dịp nào khác nữa. Đôi mắt già nua của ông Huy năn nỉ, y như đôi mắt trẻ con của thằng Hảo ngày xưa năn nỉ cậu Cử Huy, cho nó được ở lại hầu hạ cậu, đừng đuổi nó về với mẹ nó. Cuộc đời thường hay có sự hoán vị. Hảo nhìn những phong thư từ Oasinhtơn, Pari, Bon, Brucxen bằng ánh mắt cảnh giác, không muốn sờ tay vào, không muốn đọc. Giọng ông Huy buồn rầu: - Chú Minh ở Mỹ, chú Trí ở Pháp, chú Tuệ ở Tây Đức, cô Thu Hằng ở Bỉ, năm nào họ cũng dắt díu con cái về Pari, làm giỗ bố tôi ở đó, đã thành lệ. Năm nay kỷ niệm tròn 40 ngày mất, các em tôi quyết định làm giỗ to hơn, đúng truyền thống nghỉ lễ dân tộc. Họ hối thúc tôi xin phép nhà nước mình, làm thế nào sang được Pari tham dự. 6. - Hừ, người Việt Nam, đẻ ở Việt Nam, sống ở Việt Na, chết ở Việt Nam, mà giỗ hàng năm lại ở Pháp - Hảo cười mỉa mai – Linh hồn cụ Nghè làm sao vượt biển sang tận bên đấy hưởng hương hoa của con cháu được. - Cũng là một cách những người xa quê hương hướng về cội nguồn, tổ tiên, dân tộc. - Hướng về bằng các hoạt động yêu nước chứ... - Tất nhiên rồi... Nhưng trong trường hợp cụ thể này, anh thông cảm cho. Với quyền hạn của anh trong Ban tổ chức Trung ương, với quan hệ của anh với các đồng chí lãnh đạo các cơ quan hữu trách, mong anh giúp tôi việc này... Anh xin cho tôi đi thời hạn một tháng. Đúng một tháng, tôi chỉ cần dự lễ kỷ niệm 40 năm ngày mất cha tôi. Sau đó về ngay. Tôi không thiết gì cả, không háo hức gì cả. Pari với tôi chẳng có gì xa lạ, hấp dẫn. Tôi đã ở đấy suốt tuổi thơ ấu học trò... - Bác là con trưởng. Bao nhiêu năm nay bác vẫn làm giỗ cụ Nghè tại Hà Nội. Và đó mới là giỗ chính thức. Hương hồn cụ Nghè chỉ có thể ngự trên bàn thờ người con trưởng tại quê hương, chứ cái gọi là ngày giỗ ở Pari không có ý nghĩa gì - Hảo bác thẳng cánh - Thật là mỉa mai, một ngày giỗ tổ tiên mà bầy con cháu chắt nội ngoại đứng lễ, đứa khấn bằng tiếng Mỹ, đứa khấn bằng tiếng Pháp, đứa khấn bằng tiếng Đức, đứa khấn bằng tiếng Bỉ... mà anh hồn cụ Nghè lại chỉ thông thạo nhất thứ chữ Hán của Tầu!... Thiết nghĩ bác là một nhân sĩ yêu nước, một trí thức sớm đến với cách mạng. Bác có vai trò không nhỏ trong sự nghiệp động viên tầng lớp nhân sĩ trí thức đoàn kết tham gia công cuộc kháng chiến kiến quốc. Bác đường đường từng là thành viên đoàn chủ tịch Uỷ ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bác phải giữ gìn, đừng lại việc gì có hại đến cái thanh danh... Khi nội dung đối thoại chỉ là giao thiệp thông thường, ông Huy mù mờ, vụng về. Nhưng đụng đến các vấn đề xã hội, chính trị, ông vụt thành người khác hẳn, mắt sáng long lanh sau kính trắng, tư thế đĩnh đạc, đúng phong cách người từng đứng trên bục bảo vệ Luận án triết học tại Trung tâm văn hoá lớn của thế giời, và hơn nữa, tư thế của nhà ngoại giao bên bàn Hội đàm quốc tế trong tình thế đất nước nghìn cân treo sợi tóc. (Ông là thành viên quan trọng trong Đoàn Ngoại giao chính phủ lâm thời đàm phán với Pháp năm 1946). - Hãy nhìn sự việc bằng con mắt của lịch sử. Sự ly tán bốn phương của gia đình tôi là hậu quả tất yếu do hoàn cảnh lịch sử tạo nên. Điều cốt yếu phải nhìn nhận là: cơ bản họ đứng về phía nhân dân. Cha tôi là quan cương trực, ghét Pháp, đã xử những vụ án nổi tiếng bênh vực công lý. Cuối cùng treo ấn từ quan, bất hợp tác với Pháp. Chúng tôi đã có những “cải cách xã hội” trong phạm vi đồn điền Trại Dẻ. Bản thân tôi ủng hộ cách mạng toàn bộ gia sản của mình, trong đó có 700 lượng vàng hồi tuần lễ vàng. Các em tôi đều có xu hướng trở thành các nhà kinh doanh, nhà khoa học, nghệ thuật thuần tuý. Ở nước ngoài, nhưng luôn hướng về Tổ quốc. Tôi có đi gặp họ, chẳng có gì hại đến thanh danh cả... * * * - Hảo, mày dẫn tao về nhà mày chơi? - Thưa cậu, hôm nay trời đẹp thế này vào rừng bắn chim thú lắm cậu ạ. 7. - Không, chơi mãi chán rồi. Tao muốn tìm hiểu cảnh đời những người dân quê. - Để cậu “tả” lên báo tiếng Tây phải không ạ. - Có thể. - Nhưng nhà cháu thì có gì để “tả” đâu. - Tao muốn nghe mẹ Hảo kể chuyện đời mình. - Đời mẹ cháu thì chán lắm. - Tao cần biết cái “chán” ấy. Hảo xăm xăm đi trước. Con ngựa bách của cậu Cử thong dong bước một. Chiếc cổng rào tre được chống lên. Trước mắt cậu Cử là một khuôn hình phong cảnh nếp nhà tranh, sân đất rêu, con cún vàng nằm ngủ, chum hứng nước mưa dưới gốc cau xanh. Một người đàn bà trẻ, bầu bĩnh, môi ăn trầu đỏ chót chạy ra: - Chào cậu chủ. - Chào chị Thản. Công việc làm ăn dạo này thế nào. Lúa má tốt chứ... - Dạ thưa cậu, cũng tàm tạm ạ. - Mẹ ơi, cậu chủ đến nghe chuyện đời mẹ, để “tả” lên báo tiếng Tây đấy... Người đàn bà tá điền há hốc mồm kinh ngạc. Chị đã nghe nhiều chuyện khác thường về cậu chủ trẻ tuổi này. Huy buộc ngựa vào gốc cây, phá lên cười giòn giã... * * * ... Mười mấy năm trước, cái gái Thản lớn lên nở nang xinh xắn. Chỉ hiềm một nỗi, nhà Thản quá nghèo. Ông giời chỉ biết sinh ra con người trần trụi, thả nó lên trần gian, thế là giời xong nhiệm vụ. Con chuột chỉ việc giũi mồm, thế là có hang ở. Con nhện, con tằm thì có sẵn “vật liệu” làm nhà ngay trong bụng mình, chỉ việc kéo ra mà đan thành nơi trú ngụ. Con chim yến thì nhả rãi trong mồm ra thành tổ. Con rùa có sẵn mái nhà trên lưng. Còn con người, ông giời thả rông trên mặt đất, phải tự lo lấy nơi che mưa nắng. Ông giời sinh ra con chim, đồng thời cho nó luôn bộ “quần áo” lông che thân vĩnh cửu. Con cá có bộ “áo giáp” vẩy, lại còn trang trí đẹp, màu sắc óng ánh. Con trâu phải trần trụi nhưng còn được “sơn” màu đen bóng, dầy cộm “che thân” cũng đỡ. Còn con người, còn Thản, tệ quá đã không cho cái gì che phủ, lại con cho thân hình nuột nà, trắng tinh như đồi tuyết phủ, thiên hạ chỉ thích ngó nhìn. Thản biết lấy gì mà che kín nó lại được. Thản có răng, có mồm, nhưng lại không biết lấy gì mà ăn no bụng. Thóc gạo lấy từ đất ruộng, muối lấy từ biển. Nhà Thản không có ruộng, không có biển. 8. Từ bé, Thản luôn thấy đói. Đêm chỉ mơ ngủ thấy khoai lang chín, mà chín ngay trong đất, cuốc lên một cái, đã thấy nó chín thơm lừng ngọt lự rồi. Đêm đêm mẹ con Thản nằm trên đệm rơm, phủ lá chuối khô lên người cho đỡ rét. Thản có một chiếc váy thâm đất và một chiếc áo nâu. Bộ đồ từ lâu, rách đâu vá đấy, năm này qua năm khác, mụn nọ chồng lên mụn kia, và cứ tiếp tục chồng lên nữa, nên đã biến thành bộ đồ vĩnh cửu. Hai mẹ con cười hì hì nhìn nhan đắc chí vì dẫn được câu ngạn ngữ “Tiền lĩnh váy chị không bằng tiền chỉ váy tôi”. Một tuần Thản giặt quần áo một lần. Giặt vào đêm vì phải cởi truồng ngồi ngoài cầu ao. Đêm ngủ và cả ngày sau nữa, đóng cửa chặt ngồi trong nhà, váy áo khô. Thản đang tuổi dậy thì, tóc xanh mướt phủ như mành sau lưng, dài chấm gót. Những hôm ấy, cô quấn tóc quanh người, cũng che được nửa thân. Thản thích ngắm thân hình mình, vì nó đẹp quá. Nắng hanh ngoài sân, qua khke lóêp, rọi vào, đúng chỗ Thản nằm, tấm thân trần sáng trưng lên như gương, Thản thấy mơ màng ngây ngất. Sao không? Ít ra giời nặn nên cái thân thể nuột nà này là để làm gì chứ? Nếu không thì để nó mốc thếch xù xì đen kịt như da trâu khỏi uống phí. Thản nghèo quá, chẳng là chủ nhân cái gì, nhưng là chủ nhân một thân hình đẹp với nước da nõn nà. Bụng thèm ăn, thiếu gạo đành chịu nhịn. Nhưng thèm yêu còn hơn cả thèm ăn, lại sẵn thịt da ngọc ngà này, thì tội gì phải nhịn. Tháng giêng làng nào chả có hội. Làng Trúc bên kia có hội chen đêm. Thản nắm cơm đội nón mê băng đồng, đi hội từ ngang chiều. Nắng tháng giêng reo như bọt nước tan. Suốt cả năm gái trai làng Trúc mong đợi hội này. Suốt chiều người ta rập rình ở các ngõ, để chờ tắt nắng một cái là lao ra đường. Thản thập thò ngoài cổng làng. Khi nghe tiếng hò reo và ánh pháo bông bay lên, cô chạy tất tả. Đường đông nườm nượp, quần áo đẹp ngợp mắt. Tiếng cười reo vỡ trời, bất kể ai với ai, cứ trông thấy là xô đẩy chen nhau đùa nghịch. Hội có từ thuở lập làng. Hội càng vui thì làng càng hoà cốc phong đăng. Trăng tháng giêng mở tỏ, không ai nhìn rõ mặt ai, chẳng còn ngượng ngùng gượng gạo gì. Ngày thường nam nữ “thụ thụ bất thân” nhưng đêm nay “vắng chúa nhà gà vọc niêu tôm” con gái thành quỷ sứ. Thản đã cởi truồng cả ngày để ướp nước hương nhu, hoa nhài vào bộ váy “đẹp”. Đêm, váy đụp cũng giống váy lành. Thản xán vào chỗ đám đông. Một bọn con trai ào qua không chen. Thản chột dạ, hay chúng thấy mình váy rách. Thản lại xán đến một đám khác, đợi một cánh tay con giai đẩy mình, để Thản sẽ đẩy lại, và xô nhau cuốn tròn vào đám đông nô cười. Nhưng bọn này như không nhìn thấy Thản. Chúng mê mải đùa nhau, tay con trai sờ vào lườn, thục vào trong lần áo con gái, bọn con gái ré lên, đấm thùm thụp bọn con giai. Thản vẫn đứng bơ vơ. Một thắng bé loắt choắt từ xa chạy lại đấm lưng. Thản quay lại, nó chỉ đứng đến cổ, mồm chuột chù vêu vao, mắt cụp xuống ngượng ngùng. 9. Thản chán quá, bỏ đi. Có bọn rất đông từ đầu đường xô lại cùng tiếng cười phá trời. Nhiều đứa con gái đã bị bựt tung cả cúc áo, đứt cả giải yếm, vú vê thỗn thện kêu thét chạy trốn. Thản xô vào chặn ngang cho chúng thoát. Bọn con giai đang đà xô phải Thản. Thản nhớ rất rõ cái phút giây kỳ diệu bàn tay người con giai đầu tiên đẩy vào ngực cô, xiêu đi, suýt ngã. Tiếng cười của Thản bật ra giòn tan. Tiếng cười đầu tiên của cô trong đêm hội sau bao giây phút đợi chờ. Từ đây Thản chỉ còn cười không ngớt, cười ré, cười sặc sụa, lăn xả vào bất cứ ai mà chẳng còn ngượng ngập gì. Bọn con giai quấn tròn quanh Thản, nhưng cô khoẻ quá, ẩy hết đứa này đến đứa khác văng ra, cười đến đứt hơi. Từng bọn “bạn chen” trôi qua trên đường như những đợt sóng. Giờ này trong đình làng đang có cuộc tế thần. Hết canh ba mới “lễ tất”. Suốt thời gian tế con trai con gái tha hồ chen nhau sờ soạng nhau. Có thế mới mưa thuận gió hoà, lúa má chẳng xâu xia, người không dịch bệnh, quan ôn chẳng đến làng... Có một người con trai cao lớn đang đi lại. Thản vội xông ra cản đường. Anh có vẻ ngạc nhiên. Thản lấy vai ẩy tha hồ mà không làm anh suy xuyển. Chẳng nói chẳng rằng, anh đưa cánh tay lực lưỡng chắc như gọng kìm, kéo một cái, Thản ngã sấp vào ngực anh. Anh quắp Thản gọn như con đại bàng cắp nàng công chúa trong chuyện Thạch Sanh. Họ đang đứng bên hồ. Mây trên đầu trôi vùn vụt như ăn cướp. Mây giống như những đợt sống gái trai đang chạy trên đường. Một bọn quỷ sứ đến. Chúng ẩy tung cả anh lẫn Thản xuống hồ. Hai người chết ngụp. Chúng khoái chí cười vang. Anh lôi được Thản lên bờ, quần áo dính bết vào người. Anh cởi ra vắt nước. Thản thấy bắp vai anh vồng lên như cuộn chão. - Bọn khỉ gió ở đâu ra ấy. - Ướt hết anh nhỉ. Chợt anh nhìn trộm chỗ khuy áo tuột của Thản, đúng lúc có ánh trăng dọi vào sáng loé lên. Tự dưng hai người “quện” nhau. Ngoài đình cuộc tế thần đã vào tuần rượu thứ ba. Hương trầm hết tuần thứ mười, nến thắp tuần thứ bảy. Các ông chủ tế, bồi tế đã mỏi khuỵu lưng. Tiếng trống thu không canh ba trên vọng lâu đã thong thả điểm những tiếng đầu. Dứt nhịp trống này là “lễ tất” hội chen chấm dứt. Ngoài nhà “giải vũ” bọn trương tuần quản xã đã dốc ngược các chai rượu tu giọt cuối cùng, xé lá chuối gói lấy phần thịt mỡ xương xẩu ăn thừa. Mỗi đứa một chiếc roi song lăm lăm, chúng có nhiệm vụ khi tiếng trống thu không cuối cùng vừa dứt, là xông ra đường. Thời hạn cho trai gái nô đùa nhau đã hết. Lúc ấy mà còn sờ cú sờ lườn nhau sẽ làm hỏng hết cả phép nhiệm màu của lễ hội chen. Hơn thế nữa, như thuốc dùng quá liều công phạt, cả làng sẽ bị chết oan. Sẽ bị vỡ làng, chồng nào vợ nấy bị gậy mà đi ăn mày. Hoặc khủng khiếp hơn, Quan ôn sẽ về bắt từ đứa bé lên ba đến ông già đầu bạc. 10. Cho nên sứ mệnh của bọn quản xã trong tuần là cực kỳ quan trọng. Cứ là quất sướng tay, đuổi như đuổi vịt. Đứa nào còn nấn ná, chưa chạy kịp, vỡ đầu xẻ tai mặc kệ. Vỡ đầu xẻ tai mình mày, còn hơn chết cả dân làng. Thản và anh biết thân biết phận cắm đầu chạy về bãi tha ma sau chùa. Mồ mả lúp xúp dưới bóng cây rậm rạp. Sương tháng giêng ẩm ướt, khí phốt pho từ các xác người đang phân huỷ dưới lòng đất, bay lên cháy xanh lét, lập loè chập chờn vướng vít vào các cành lá. Dào ôi, phốt pho phốt phiếc đâu chả biết, hồn người chết đang dạo trong đêm đấy. Tiếng lá, gió xì xào là tiếng hồn ma nói chuyện. Eo ơi, sợ quá, sao chúng mình lại dắt nhau đến đây nhỉ? Đây là lãnh thổ của ma. Cả mặt đất mênh mông của người sống không chỗ nào cho ta yêu nhau một cái hay sao mà phải đến nhờ lãnh đại của người chết. Nhưng mà đúng thế đấy. Chỉ có nơi đầy hồn ma này mới cho phép ta được làm cái việc thiêng liêng ấy. Những hồn ma mắt sáng xanh lè bay quanh ta nhưng không tò mò dòm dỏ “công việc” của ta. Hồn ma thông minh hiểu cái việc ta làm là để tạo nên sự sống của trái đất này. Quan trọng lắm, vĩ đại lắm. Cái việc quyết định sự tồn tại của giống nòi nhưng lại phải làm dấu diếm... Mùi hương trầm từ trong chùa toả ra tận đây. Nhà Bụt ở sát nách nhà mà. Hàng xóm với nhau. Tồn tại song song, chả bên nào loại trừ được bên nào. Ánh sáng xanh lét của ma soi đôi vai trần trắng mờ của Thản. Đoi chân ngồn ngộn lún trong cỏ rồi như trăng chìm trong mây. Thản chịu sức nặng của cả trái đất đè lên người. Khi tiếng trống vọng lâu ngưng bặt, cả anh và Thản sực tỉnh kinh hãi. Ngoài đường tiếng bọn trương tuần quát lác vang trời. Thản và anh cắm đầu cắm cổ chạy mỗi người một ngả. Tiếng roi song vút trong không gian nghe veo véo rợn người. Khối cô vịt bầu lạch bạch chạy không kịp roi cứ rán vào lưng. Bọn trương tuần cười khoái trá. Ai bảo chúng mày, sướng lắm khổ nhiều... Thản đã vọt ra được phía ngoài cổng làng, dừng lại để thở. Đôi vú rắn như ổi xanh bị bóp, giờ còn đau cứng... Anh ấy tên là gì nhỉ? Chả biết, vội quá. Ở đâu cũng chả biết. Khổ quá, chưa cả kịp “ấy” xong thì tiếng trống cuối đã điểm... * * * Thản kinh sợ thấy mình có mang. Sao có thể dễ thế nhỉ. Tưởng phải lấy chồng, ăn ở âu yếm đồng thời với cãi chửi nhau, đập vỡ hết bát trong chạn, khóc xưng mắt vì mẹ chồng ác nghiệt, phải thế nào thế nào mới có mang được chứ. Thản phải nới cạp váy. Thân thể người ta ăn “bẩy bồ cám tám bồ bèo”, bèo lớn khó khăn, vậy mà mới chỉ ôm ấp truyền hơi truyền sức cho nhau vội vàng tý chút, bụng đã nở ra như bột từng tuần từng tháng. Chẳng còn dấu ai được nữa rồi. Trời ơi, biết làm sao bây giờ. Tiếng đồn con Thản hoang thai bùng nổ ngang như tin có động đất, tin trời sập, sắp tận thế, luân lý đạo đức sắp bị tuyệt diệt. 11. Ngoài đình đã có phiên họp thứ nhất của các chức sắc, các cụ thượng râu nhất râu nhì bàn về sự kiện quan trọng có một không hai trong lịch sử cái làng có tên là Văn Đàn và từng được vua ban bốn chữ “Mỹ tục khả phong” này. Chiểu luật xưa, kẻ hoang thai phải lột truồng, đeo phèng phèng, củ dứa, đi bêu khắp làng. Nhưng các cụ thấy rằng thời “văn minh” này làm thế chẳng lợi lộc gì. Bắt khoán phạt vạ vài chai rượu, một thúng gạo sôi, một thủ lợn, đôi gà sống thiến để các cụ nhắm là hơn. Thay vào hình phạt bêu dong, chỉ nên gọi tội phạm ra đình, nọc ra lột quần đánh cho vài roi vào đít. Các cụ chờ đợi. Còn nửa tháng nữa đến ngày thi hành nghị quyết. Ngồi xé thịt gà nhắm rượu nhìn một con bé cởi truồng, đít to trắng ngần bị đánh đòn thì còn gì thú bằng. Hôm ấy, có cuộc họp giữa đình, vẫn là bàn về chủ đề “thuần phong mỹ tục”. Lạ quá, bỗng dưng cụ thượng nhất bụng toàn chữ thánh hiền, chữ thánh hiền lâu ngày ôi thiu không tiêu hay sao mà phải tìm cách ộc ra đằng mồm. Mặt tái ngắt, cụ nôn thốc nôn tháo đầy chiếc chiếu hoa cạp điều. Chữ thánh hiền còn tìm một cửa nữa, người có học gọi là hậu môn, dân quê gọi là lỗ đít để trào ra ồng ộc. Cụ cúi gập người lả đi. Cả hội nghị “thuần phong mỹ tục” hoảng sợ bỏ của chạy lấy người. Cụ thượng nhất là người đầu tiên mắc dịch tả trong làng. Dịch tả, nói là tại vi trùng tả. Vi trùng là cái gì? Vi trùng bé tý tẹo làm gì vật ngã được người to lớn thế? Vô lý. Chỉ tại quan Ôn. Đích thị quan Ôn đến trừng phạt. Ai bảo cái làng Văn Đàn này độc ác, đạo đức giả cho lắm vào... Khốn khổ, bây giờ mới là chuyện sụt đất, sập trời tận thế thật. Mà có nhẽ tại cái con đĩ hoang thai. Phạm đến thuần phong mỹ tục, nên cả làng bị trừng trị. Phải tìm nó đem giết ngay. Nghe tin ấy, nửa đêm Thản xé rào chân tre làng bỏ trốn. Đi, đi, chả biết đi đâu. Nhưng chân cứ bước. Cái thai đến ngày sinh nặng trĩu trong bụng. Nằm cầu ngủ quán, kiếm cua lươn ốc nhái dọc đường mà ăn. Một buổi kia, Thản tới xứ đồi, đất đỏ au, dẻ tốt la đà. Trong cái lều ven đường tải lá dẻ khô, đếm ấy Thản đau đơn quằn quại, chân tay cào đất, mồm cạp vào cọc lều, gào thét. Thằng bé hảo ra đời. Thản ở lại xứ đồi, thành tá điền đồn điền quan Án từ hôm ấy... - Hảo, mày đi gọi tất cả bọn trẻ con trong xóm chiều mai đến đây. - Làm gì hả cậu. Chúng nó bận lắm. Còn phải chăn trâu hái củi. - Bảo tao cho quà. Quà Hà Nội mới mang về. Chiều hôm sau trên sân nhà khách đồn điền có cảnh tượng lạ. Hơn ba mươi đứa trẻ con quần áo túm tó, ghét đầy cổ đầy tai, tóc xù tổ quạ, nghếch nga nghếch ngác kéo đến. Hảo bắt chúng xếp hàng bốn. Lão quản lý đồn điền tóc cánh phượng chải briăng-tin bóng mượt, kính gọng vàng, béo múp míp, nhăn nhó theo cậu cử Huy ra hiên. 12. Lão kinh hoàng nghe lệnh cậu chủ ban ra rông rổng, nào là may cho mỗi đứa trẻ này một bộ quần áo (ôi lấy đâu ra, một núi vải); mở lớp dậy quốc ngữ cho chúng (trời, chúng có chịu đi học không?); lên tỉnh đón y tá về chủng đậu hàng loạt... (bọn này quật đầu gốc tre cũng chẳng chết đâu mà sợ). Lão quản lý ù cả đầu. Cái cậu chủ ngông nghênh, học đòi văn hoá châu Âu rởm đời này, đang phá tan cơ nghiệp cụ Án để lại đây. Lão càng lo lắng hơn khi thấy cậu Cử ngày càng “bầy trò”. Cái con mẹ Thản ngu dốt còn biết gì nữa, mà cậu gửi lên bệnh viện tỉnh học nghề, về làm bà “xa phăm” đỡ đẻ. Thật là hết khôn dồn dại, văn hay chữ tốt để đâu, mà lại đi nghĩ đến những chuyện “nhảm nhí” “bẩn thỉu” của đàn bà. Nhưng thôi chuyện ấy dù sao cũng chỉ buồn cười chứ không nguy hại chết người bằng chuyện cậu tập hợp tá điền lại để họ bầu một ông “đại diện”. Đại diện có nhiệm vụ thay mặt mọi người đề đạt yêu cầu này yêu cầu kia, với ông quản lý. Ví dụ năm nay khu này khu kia mất mùa phải giảm tô thế nào đó. Quản lý, hoặc thậm chí cả cụ Án nữa phải thường xuyên gặp gỡ vị đại diện để tìm hiểu dân tình trong đồn điền mình. Cũng trong hội nghị ấy, cậu Cử tuyên bố mức giảm tô gồng loạt 10%. Thật khủng khiếp. Bọn dân đen thì chúng chỉ muốn phá nát cái đồn điền này, mỗi đứa chiếm vài sào ruộng, hàng năm chẳng phải nộp tô cho ai. Chúng chẳng muốn có ông chủ nào trên đầu. Nhưng ai, ai đã bỏ tiền của ra khai phá miền đất lau sậy hoang vu này. Ai đủ uy quyền, sức lực để làm cái việc ấy. Phi cụ Án ra thì ai làm được. Đất hoang bao đời, chỉ có cóc nhái, rắn rết làm chủ, trí lự cụ Án đã biến nó thành bờ xôi ruộng mật. Bọn dân nghèo thước đất cắm dùi không có, đói rét lang thang đầu đường xó chợ, sức rộng vai dài nhưng cháo không có mà húp trôi dạt đến đây như bèo tấm tụ lại, được làm tá điền, có ruộng cấy, có cơm ăn áo mặc, sướng quá, bằng ngủ mơ được vàng còn gì nữa. Ở dưới quê xuôi thì suốt đời cày thuê cuốc mướn, chui rúc lều vịt, nghèo đến trai không lấy được vợ, gái không lấy được chồng; quản xã trương tuần bắt nạt, lệ làng nghiệt ngã. Đến đây vùng đất mới, rừng rú, không chùa chiền đình miếu, không khuôn phép lễ nghi, trai gái cứ đầu mày cuối mắt thích nhau là ghép thành đôi, về ở với nhau nên vợ nên chồng. Rừng lắm gỗ tre, vào mà chặt. Núi lắm đất lắm đồi, cứ chăng dây cắm cọc mà làm nhà. Ruộng thì đấy, đến xin với cụ Án muốn cấy mấy mẫu mấy sào thì cấy. Hỏi còn ai sướng hơn dân Trại Dẻ. Công đức cụ Án như thế mà chúng đâu có ơn. Phải gánh thóc tô đến đổ khi là chúng tiếc đứt mắt ra, chúng hằn học, chỉ muốn ăn cả, chỉ muốn làm loạn. Bây giờ lại được cái cậu “quý tử” trưởng nam cụ Án về đây nối giáo cho giặc. Giảm tô 10%, ối giời ôi, chết cụ Án rồi, chết cả ta nữa rồi... Tên quản lý gần phát điên. Đồn điền sắp tan rồi. Lẽ đời, chúng nó có nghèo, có ngu thì mới “cai trị” được chúng. Dạy chữ cho con cái chúng để sau này bọn nhóc ấy lớn lên sẽ làm loạn à. Cái thằng có chữ trong đầu, cái thằng khôn, còn ai bảo được nó, lừa được nó. Nó sẽ chẳng an phận nai lưng ra kéo cày cho ai hưởng đâu. Không. Không mở lớp mở liếc gì hết. Cứ để bọn trẻ con ấy ngu dốt, lêu lổng mò cua bắt ốc, bẫy cò bẫy rắn ngoài đồng. Và cái con mẹ Thản nữa... Bây giờ gọi là bà xa phăm cơ đấy, đỡ đẻ lại mặc áo choàng trắng, rửa tay xà phòng, cắt rốn bằng dao kéo sáng choang, luộc tẩy trùng cẩn thận. Mẹ kiếp, cái bọn nông phu buộc lạt gấu váy, lội nước ngang lưng thì vi trùng nào làm gì được nó mà phải tẩy trùng tẩy chiếc vẽ 13. sự. Mí lại nếu để chúng đẻ đứa nào nuôi được đứa nấy, thì để đâu cho hết người. Một mẹ, mười đứa con trai lộc ngộc lại có chữ khôn ngoan, ôi, thì chúng còn biết sợ ai nữa. Chúng sẽ làm loạn. Phải để chúng suốt đời bận rộn vì đẻ, ốm đau, hậu sản sài mòn vì đẻ. Sòn sòn ba năm đôi, nhưng lại cứ để chết như sung rụng. “Mười phần chết bẩy còn ba, đến khi vua ra chết hai còn một” cơ mà. Thế thì mới cai trị được chúng chứ... Lão quản lý đêm nằm gối đầu lên tay vợ hai, chân gác lên đùi vợ ba mà lo. Cứ đà này, bọn tá điền sẽ cưỡi lên đầu lên cổ ta. Cậu Cử đang nống chúng nó lên. Cái dân bỏ quê quán tha phương cầu thực, trên răng dưới dái, vốn đã là liều rồi! Cái cụ Án này về già cũng nhu nhược quá, lại đại lần nữa. Lại nhân đức dở hơi nữa. Khi tiết hão huyền, đạo lý gàn quải. Bao nhiêu năm chả ló mặt lên đây. Tất cả khoán trắng cho ta. Một tay ta đứng mũi chịu sào cai quản đồn điền, lo liệu làm ăn, gửi tiền về cho cái gia đình quen tiêu tiền như nước. Cái ông quan Nam triều đỗ đạt danh vọng lừng lẫy mà suốt đời dẫm chân tại chỗ, không được thăng chức. May mà cụ Án vớ được ta. Không có ta thì cái nhà quan này đi ăn mày như chơi. Mẹ kiếp, sao cái thân ta khổ thế này, trớ trêu thế này, oái oăm thế này. Làm như trâu như chó đem tiền của về cho hộ mà họ đâu có ơn. Họ còn phá. Cụ Án thì thỉnh thoảng lại lên mặt dạy đời, ca bài ca nhân đức, đạo lý làm trọng. Đạo lý cái cứt, nhân đức con tườu. Đạo lý thì cụ có ăn cơm rau muống được không? Hay cụ cứ phải sâm nhung quế phụ. Cụ bắt tôi phải “thương người”, nhưng cụ cứ phải ăn gà dò gần hạt sen. Các con cụ cứ phải du học ở Pari... Rút cục chỉ khổ cái thằng này. Vừa phải “thương người” như cụ dậy, vừa phải “thương cụ” tức là gửi tiền về cho cụ. Bao oán hận ngút trời của đám tá điền trút lên đầu ta. Chỉ thiếu mức chúng muốn phanh thây xé xác ta ra thôi. Bây giờ lại đến lượt cái cậu quý tử trưởng nam này về đây hành ta nữa. Trời ơi, cái kế hoạch “dẫn thuỷ nhập điền” viển vông của cậu đến bố tôi cũng không thực hiện được. Cậu vẽ ra giấy hàng trăm con mương cái cống chứ hàng ngàn cũng được. Vài nét bút là thành. Còn cầm cuốc xẻng ra đào mới khó chứ. Sức đâu mà làm cái hệ thống “dẫn thuỷ nhập điền” như bản vẽ của cậu. Cậu bảo để tá điền họ làm vì đó là quyền lợi của họ. Hì hì... Bọn chúng ý à... Hôm nay hãy vào rừng kiếm được gánh củi nào, bắt được con thỏ con chồn nào, về ăn ngay tức khắc, lợi trước mắt cái đã. Còn đội nắng chày chày đào đắp hàng tháng giời, mà chẳng có cái gì đút vào cái túi thì hẵng khoan! Nước cạn thì chúng tát, hạn quá thì bỏ khô, đói thì dắt nhau vào rừng đào củ mài về ăn chứ lại nghĩ được chuyện hợp sức làm “dẫn thuỷ nhập điền” như cậu nói thì có hoạ là “chó có váy lĩnh”. Lão quản lý ngờ rằng cái thằng Hảo lỏi con, già trước tuổi, khôn ranh phát sợ, đã nói hết chuyện ở cái đồn điền này cho cậu Cử biết. Dân tình oan thán lão ra sao, lão “tham lam độc ác” thế nào... Chính nó dắt cậu Cử đến nhà các tá điền chuyện trò theo tinh thần “bình đẳng, tương thân tương ái”. Cái thằng Hảo đã được cậu Cử dậy cho biết chữ, biết phép cộng trừ nhân chia, rồi lại cho đọc sách báo định đào tạo nó thành ông quản lý tương lai thay ta chắc. Thời thế đáng lo quá. Trong rừng cách đây chẳng bao xa, có căn cứ của những người muốn làm cách mạng, đảo lộn hết cả cái đời này. Chúng xúi dục là điền dây dưa tô tức, gây chuyện rắc rối. 14. Mà hình như chính thằng Hảo lỏi con ấy là liên lạc cho chúng, mang tin để chúng quần tam tụ ngũ, hoặc lảng trốn khi có động... Thằng Hảo... Thật không phải chuyện đùa. Phải canh chừng, cảnh giác nó... * * * Bầu trời cao nguyên xanh ngắt và... hoang dại. Bầu trời trên đầu thì đâu chả là mây và nền xanh vô tận, nhưng sao ở đây cứ thấy có gì hoang dại. Sau cơn mưa, những tàng cao su ướt đẫm. Cỏ tranh xanh mướt hai bên đường đất đỏ. Những cô gái Ê đê, ngoại ô Ban Mê, Sài Gòn, váy đen truyền thống, đeo gùi vào thị xã. Những thằng bé tóc xoăn, mắt to thô lố, đội mũ lính nguỵ, tay xách lồng chim tung tăng. Rồi đến những cặp vợ chồng, chồng đeo ná ngậm ống vố nhả khói mù mịt, vợ địu con đeo gùi, con chó săn chạy lăng xăng dẫn đường. Chiếc Tôyôta trắng bập bềnh lướt trên đương đất đỏ. Ông Quang Huy ngồi băng sau nhìn vào cái gáy béo núc bị ùn lên vì cổ áo lễ hồ cứng của ông linh mục. - Cao nguyên của chúng tôi giầu đẹp lắm – Đôi kính gọng vàng của vị linh mục quay lại. - Vâng... Giàu đẹp. - Những đồi cà phê kia là của Nhà xứ Ban Mê chúng tôi. Cứ bẩy tấn cà phê có thể đổi cho Nhật lấy một chiếc Tôyôta. - Hương vị cà phê Ban Mê tuyệt vời. - Đứng đầu thế giới, bên cạnh cà phê Bradin. Chiếc Tôyôta bắt đầu đi vào con đường đá trắng. Tu viện “hầu cận chúa Hài Đồng” nằm giữa một vùng đồi bằng phẳng, trông xa như một khu rừng nhỏ. Các loài cây đại thụ được chăm sóc như trong vườn Bách Thảo. Vẹt, trĩ, xập xoè bay lượn; khỉ vượn leo trèo. Các cổng lớn cổng nhó mái Gô tích, đắp tượng chúa Jêsu chịu nạn, tượng Đức Mẹ bế chúa Hài Đồng. Chiếc Tôyôta lăn vào cửa tiền sảnh. Sân lớn lát đá tảng, lô nhô chậy hoa cây cảnh. Toà tu viện uy nghi đồ sộ toát ra không khí của thời trung cổ, thần quyền giáo lý bao trùm thế gian. - Tu viện này xây từ hồi các nhà truyền giáo Pháp và Bỉ đặt chân lên đất Tây Nguyên. Nó hoàn toàn cách biệt thế giới bên ngoài. Vị linh mục xuống xe, to béo trắng trẻo, oai vệ chẳng kém giáo hoàng. Ông là chỗ quen biết với ông Huy qua các kỳ họp của mặt trận Tổ quốc trung ương. Ông bạn già Huy đã về hưu, nhưng ông vĩnh viễn cai quản xứ này. Khi ở đây còn chế độ dân chủ tư sản. Nam Bắc chiến tanh, ông có tham gia tích cực phong trào “Nguyện cầu hoà bình”. Khi quân cách mạng tiến vào giải phóng cao nguyên, ông đứng ra cổ động phong trào “cứu vớt nạn nhân chiến tranh”. Đại hội công giáo yêu nước họp ở thủ đô gồm các giám mục linh mực thứ thời, đạo đời trung dung, ông đã ra họp dù không được giám mục địa phận cao nguyên đồng ý. Ở đấy, ông đã diễn thuyết những điều làm giám mục không hài lòng. 15. Hôm nay nhân dịp ông Quang Huy vào thủ phủ Tây nguyên viếng mộ (bà Đức Hạnh được chôn cất tại nghĩa trang Ban Mê, do hy sinh trên đường công tác qua cao nguyên năm 1972); Ông mời đến tham quan tu viện. Bà Nhất tu viện ra đón khách, lịch sự một cách lạnh lùng. Đôi mắt uy quyền, đôi môi của cái miệng không bao giờ cười, giọng nói của người chỉ biết rao giảng dậy dỗ. Tu viện từ chối tất cả những gì là nam tính. Không bao giờ có đàn ông đến đây, trừ trường hợp đặc biệt này. Bà Nhất đưa khách đi xem một vòng quần thể kiến trúc. Nhà nguyện của các nữ tu. Nhà giảng giáo lý. Và các khu nhà ở, nhà ăn, nhà phạt kẻ phạm lề luật. Chủ yếu là xem khu rừng cà phê của tu viện, và cơ sở chế biến rất hiện đại. Đó là ngành kinh doanh làm giàu cho Nhà thờ và tu viện. Gần trưa, buổi tham quan kết thúc. Ông Huy cám ơn bà Nhất ra về. Xe nổ máy bắt đầu lăn chầm chậm thì có bóng một người nữ tu từ phía trước đi lại. Không hiểu sao ông Huy lại ngắm người nữ tu, một người trạc 50, rất đẹp, đôi mắt to đen lấp lánh sau cặp kính trắng. Và kìa... sao trông quen quen. - Khoan đã... – ông Huy buột miệng. Người nữ tu cúi chào Đức Cha trong xe. Ông Huy vội mở cửa: - Xin lỗi bà... Hình như ông đứng không vững, tay phải vịn vào cửa xe. Người nữ tu và ông đối diện nhau. Cả hai cùng mở to mắt. Gương mặt người nữ tu đang trắng hồng rạng rỡ thế mà đột nhiên tái ngắt. - Bà là bà Nô en - Giọng ông hụt hơi. Người nữ tu run rẩy: - Vâng... Tôi là Nô en. - Bà còn nhớ tôi không? Bà nữ tu gật đầu, làn môi khẽ cười như điểm xao động trên mặt hồ phẳng lặng. - Ông Huy, không ngờ lại gặp ông. Chiếc Tôyôta lại chầm chậm lăn bánh. Khi về đến khách sạn ông Huy vội khoá trái phòng, ngồi lặng xuống xa lông. Có lẽ nào lại có thể nhận ra nhau sau hơn 30 năm một cách dễ dàng thế. Vô lý. 30 năm, cả một cuộc đời người, mà lại có thể nhận ra nhau trong tích tắc. Không - người nữ tu ấy không phải là Nô en. Chỉ là ảo ảnh thôi. Ta thì đã già thế này, mà bà ấy sao vẫn trẻ đẹp thế được. Thời gian không có đối với con người ấy hay sao. Hay là sự đồng trinh thánh thiện làm cho con người tinh khiết tươi non mãi mãi. Ồ... Hôm nay là ngày gì. Ta đã quên người đàn bà ấy rồi cơ mà. Ta già, già sắp chết rồi. Thế mà éo le quá, lại gặp con người ấy. Nhưng lẽ ra, gặp thì gặp, bình thường. Tại sao ta lại xốn xang bàng hoàng thế này. Thật xấu hổ. Tuổi già lại có gì giống hệt tuổi trẻ sao? Bà Nô en, sao bà cũng còn nhận ra tôi nhỉ. Và bà còn mỉm cười. Bà đã nói “Ông Huy...” Bà đã nói tên tôi. Bà Nô en, hãy tha thứ cho tôi. Lòng người chân tu nhân từ bác ái. Chỉ có sự nhân từ bác ái, chỉ có sự đồng trinh thánh thiện, bà mới có thể có được vẻ đẹp sáng trưng tinh khiết mà tôi vừa được chiêm ngưỡng. 16. Còn tôi lặn hụp giữa cuộc đời trần tục này nên đã trở thành một ông già yếu ớt, run rẩy, cô đơn... ... Vũ gia trang được xây dựng khởi thuỷ từ hồi cụ tổ ba đời đến vùng này nhậm chức tri huyện. Mỗi đời thêm một tí, và đến đời cụ Án thì hoàn chỉnh. Gia trang dựa lưng vào dẫy đồi thấp và đằng trước có khe nước đúng “mô hình” cổ điển “Diểu diểu sơn phù hậu. Mang mang thuỷ tụ tiền”. Xung quanh là một hàng rào tre gai lâu đời dầy hai mươi thước, cành đan chằng chịt, con kiến chui không lọt. Thành đất còn bị súng thần công bắn thủng, chứ thành tre gai thì đạn thần công chẳng ăn nhằm gì. Cụ thân sinh ra cụ Án từng nuôi hàng chục thờ đẽo đá trong nhà ròng rã năm này qua năm khác. Đá cẩm thạch tuyệt đẹp, có ngay núi sau nhà. Gia trang nổi tiếng nhờ những công trình bằng đá. Cổng chính mái đá, cột đá. Đường vào lát đá phiến, uốn lượn giữa hai hồ nhỏ. Trước khi vào sân lớn, khách phải đi qua một cái cầu đá cong cong gọi là “cầu thệ thuỷ”. Gia trang có một vườn cổ thụ sau nhà gọi là vườn “nghênh phong”. Thông, tùng, đa, si đầy bóng mát và rắc lá vàng trên các lối đá quanh co dẫn đến lầu “Tị huyên” tám mái ghép toàn bằng đá, không có một viên gạch màu gỗ nào. Đó chính là niềm tự hào của gia trang thể hiện tính cách tài tử của các bậc khoa bảng nối tiếp nhau dòng họ Vũ. Toà nhà chính, không có gì đặc biệt, thiếu bốn mái cong thì thành cái đình. Tối om om, không cửa sổ. Bước vào, rợn người vì ban thờ cửa võng sơn son thếp vàng, la liệt cờ biển “ân tứ vinh quy”, “Đệ nhất giáp tiến sĩ” hoành phi câu đối “Chu tử mãn triều” và bút tích của các cụ tổ. Mùa hè năm ấy, Vũ gia trang vắng ngắt, cụ Án và cô hầu gái đi dạo chơi non nước với các bạn đồng liêu, đồng khoá. Huy cùng Hảo từ Trại Dẻ về, để đôn đốc ông Bộc - một ông già tráng kiện, quắc thước mặt đỏ hồng, râu bạc; quét tước sửa soạn đón em út Thu Hằng và bạn học từ Hà Nội về nghỉ hè, chơi cảnh thôn trang. Một buổi sớm. Chiếc ôtô “đít vịt” đen bóng bóp còi toe toe trước cửa. Thằng Hảo vội chạy ra mở cổng. Xe leo qua cầu “Thệ thuỷ” vào sân chính. Bước ra, cô tiểu thư Thu Hằng giò dài nghêu, váy đầm ngắn quá đầu gối, và một cô gái vừa ló mắm đã làm Huy sững sờ. - Giới thiệu, đây là Nô en bạn cùng lớp em. - Rất hân hạnh, chào Nô en. Huy đưa khách vào ngôi nhà mênh mông tối om, phải thắp nến, làm Nô en cứ nghếch lên nhìn cờ biển võng lọng, tưởng đây là đình chùa. Hảo vừa pha trà ướp sói xong, Thu Hằng đã kêu lên: - Ngồi đây khó chịu quá. Ra vườn Nghênh phong đi. Bọn này không ngồi trường kỷ gỗ gụ uống trà Chính Thái, đọc Đường thi, ngửi hương trầm đâu. Anh Huy tiếp bọn này theo kiểu “bá tước Châu Âu” đi. - Đã chuẩn bị. Nhưng chả lẽ khách chưa mời vào nhà đã dắt ra vườn? Nô en cười giòn giã. - Bác Tham – Ba Nô en, cho chúng ta mượn chiếc ô tô kia một tuần. Nô en tự lái, lái có bằng đấy nhé, tha hồ đi đâu thì đi. Và trong cốp xe, mẹ Nô en đã chuẩn bị đủ mọi thức ăn “sản phẩm thành phố”. Còn anh, đã chuẩn bị cho bọn này “sản phẩm đồn điền” những gì rồi. - Dạ có gà gô, hạt gắm, trứng kiến, nấm hương, thịt nai khô, nếp cẩm, mật ong, chim rẽ... Cháu lo đủ rất rồi ạ - Hảo chen vào. 17. - À thằng này giỏi – Thu Hằng xoa đầu nó. Bữa tiệc đãi khách đầu tiên tổ chức vào 5 giờ chiều, lại vườn “nghênh phong” và lão Bộc lấy làm khó chịu thấy thằng ôn con trên đồn điền về tranh mất “địa vị” của mình. Nó lanh lẹn, hoạt bát, thoải mái làm các cậu cô chiêu thích. Còn ông chủ thì tỏ ra lạc hậu chỉ thích hợp với việc rót rượu tam xà, hay trà Ô long, Chính Thái, Vũ di cho các cụ Nghề áo gấm râu dài đến ngực. Ông Bộc cho bày bộ bàn ghế gỗ gụ đen bóng, hoạ tiết nho sóc đẹp nổi tiếng, nhưng Huy bắt phải phủ bàn, lót ghế bằng đẹm bông trắng muốt để khỏi đau đít các tiểu thư (rõ đồ nũng nịu), (ngu nữa, phủ vải lên thì làm sao còn thấy được cái đẹp của bộ bàn ghế). Lão càng khinh khi thấy Thu Hằng lôi từ cốp xe ra nhưng tảng giăm bông, xúc xích, bia chai, phích đá, bánh ga tô. Lão giấu biệt bộ ấm chén cổ “Mai hạc” quý giá đồ dùng trong nội phủ xưa, chỉ bày ra mấy cái ly thuỷ tinh cao lêu nghêu như cò đúng một chân. Cũng đừng hòng lão kỳ công minh chân tay hươu kho (vẫn gác bếp dự trữ) cho mà ăn, mà chỉ rán luộc gà, cá, chim, nhì nhằng. Trái với ước đoàn của lão, bữa tiệc vẫn diễn ra vui vẻ. Trong tiếng nhạc thánh thót từ chiếc máy hát vặn cót, các “thực khách” chạm cốc, và dùng những chiếc dĩa sáng loá nhọn hoắt như cào xúc phân xiên những miếng thịt “chọc” vào mồm (thật không biết ghê). Lão Bộc rút lui hẳn khi thấy ăn xong, trong tiếng nhạc, các cậu ấm cô chiêu ôm lưng dìu nhau ra nhẩy van trên thảm lá vàng. Thật không còn thể thống gì nữa, Cậu Huy ôm lưng cô tiểu thư Nô en, rồi lại ôm lưng cả em gái Thu Hằng, quay tròn, váy xoè tung lên hở cả đùi cả vế... Suốt tuần, Huy nghĩ ra đủ các “hoạt động” vui chơi. Nệm cỏ sạch tinh, cổ thụ toả mùi thơm hắc, trăng lên vằng vặc giữa trời, ba anh em dạo quanh lầu “Tị huyên”. Tị huyên nghĩa là tim nơi thanh vắng, tránh tiếng ồn. Chiều thu, nắng vàng óng, ba anh em bơi thuyền trên hò, hộăc đánh ten nít. Chơi chán, hết “trò”, Huy dắt hai cô vào xóm. Nô en thắc mắc mãi không hiểu được tại sao trẻ con chân đất, không giày dép mà lại không đau chân, gai đâm vì trùng vốn ván lọt vào thì sao. Lại nữa, không nhà nào có màn, muỗi đốt hút hết máu còn gì! Nô en thích chụp ảnh. Cảnh cầu ao tre có cô gái quê vén quần khoả thân. Cảnh mái đao đình cong vút. Ngõ trúc quanh co, bóng người đàn bà nón thúng quai thao. Cây đa giếng nước đầu làng... Cô thức hai đêm để viết bài văn tả cảnh xứ quê đất Việt. Thu Hằng mách Nô en giỏi văn nhất trường. Nô en có chú là chủ bút Nhật trình, thỉnh thoảng nàng lại đăng một bài tả cảnh sắc đâu đó kèm theo ảnh. Nô en được cả trường gọi là “nữ sĩ”. Nô en nhắm mắt rùng mình khi trông thấy bát tương có gua trắng bơi nguẩn ngoang đặt giữa mâm cơm. Rùng mình thấy người ta rửa mặt nước ao tù. Lắc đầu lẽ lưỡi nhìn các cô thợ cấy lội nước ngập ngang lưng. Nhưng trong bài văn nàng tả thì xứ quê đất Việt thơ mộng khôn xiết, chỉ toàn bến nước trăng vàng, má hồng thôn nữ, mái rạ hương đất, chim vườn quả ngọt. - Tại sao em không tả nhà quê trong cái đói nghèo thật của nó – Huy hỏi. - Đói nghèo là chuyện ngoài đời. Còn trong văn phải tả cái đẹp chứ. - Sao không chụp ảnh bà già trật yếm bắt rận cho vào mồm nhai “cốc” một tiếng. - Khiếp... Ảnh thế ghì ghê chết. ... Hai ngày cuối cùng, Huy đưa hai cô đi thăm hai quần thể kiến trúc đẹp trong vùng: Ngôi chùa cổ và Khu nhà thờ đá. 18. Buổi sáng, họ đến chùa Cả. Bà sư ra đón lễ oản chuối hương hoa rồi đưa đoàn đi “tham quan”. Chùa làm cách đây mấy trăm năm do một công chúa thất tình bỏ kinh thành về đây đem theo mấy trăm lượng vàng, xây dựng nên. Hiện có tượng công chúa ở nhà Tam Bảo. Chùa đồ sộ, tượng phật trùng trùng lớp lớp trên bậc Nô en tròn xoe mắt, cô bé bị lạc giữa thế giới của các Đức Phật La Hán Kim Cương, mỗi người một vẻ tượng trưng cho cá tính cách ngoài đời. - Bi kịch thất tình của công chúa như thế nào – Nô en hỏi. - Tôi không biết – Bà sư lắc đầu. - Chắc là yêu một chàng trai tuấn tú kiệt xuất nhưng lại bị vua cha ép hả cho một ai đó vì lợi ích chính trị chi phối. Bà sư trạc năm mươi, thấp đậm trắng trẻo, mắt phượng rất đẹp, nét đăm chiêu nỗi buồn nội tâm. Căng trong làn áo gụ tu hành là làn da nõn nà tinh khiết, càng bật lên giá trị gợi cảm. Tại sao người đàn bà này không sử dụng kho báu giời cho chứa ngay trong dung tích thân thể mình. Bà cũng là người thất tình chán đời, xa lánh sắc dục chăng? Tội quái gì phải đi tu nhỉ - Nô en bảo Thu Hằng - Tớ mà thất tình với người này, sẽ đi yêu ba bẩy người khác thế vào! Ba người thắp hương vái Thích ca. Huy giải thích: - Chính ông này đẻ ra đạo Phật đấy, ông là thái tử, bỏ ngai vàng, đi ngồi “thiền” - dưới gốc cây Bồ đề, chim làm tổ ở vành tai mà không biết. Chính ông đã khám phá ra sợi dây nhân duyên ở đời gồm mười hai cái khoen. - Cái gì? Nô en, Thu Hằng trố mắt. - Cái khoen... Khờ... oen... khoen. Cái này dính với cái kia. Mọi bí mật của sự sinh diệt vạn vật ở trong mười hai cái khoen ấy. Đời là bê khổ. Chúng sinh khổ vì tham muốn. Muốn khỏi sinh, diệt; phải đập vỡ sợi dây mười hai cái khoen ấy. - Chả hiểu anh nói cái gì. - Tôi đang nói sách Phật. Vô minh là nhân sinh ra Hành. Hành sinh ra Thức. Thức sinh ra Danh sắc. Danh sắc sinh ra Lục nhập. Lục nhập sinh ra Xúc. Xúc sinh ra Thụ. Thụ sinh ra Ái. Ái sinh ra Thủ. Thủ sinh ra Hữu. Hữu là nguyên nhân của Tái sanh. Tái sanh là nguyên nhân của sự già chết... Đó là nguyên nhân của các điều thống khổ. - Nô en, dân công giáo đọc Kinh thánh chọi lại anh tớ đi. - Tớ không còn là con chiên ngoan đạo lắm, nên cấm thuộc một câu Cựu ước Tân ước nào. Phải mẹ tớ cơ, mẹ tớ sẽ làu bàu. - Chẳng phải chờ mẹ Nô en. Ngày mai đi thăm nhà thờ, tôi sẽ đọc kinh thánh cho các cô nghe. - Anh thật là một người thông minh và... vô đạo. Kinh phật của người ta thiêng liêng mà lại dùng từ ấm ớ... Khoen khoen là cái gì... ... Nếu như quần thể kiến trúc của ngôi Cả chùa kín đáo thâm u cổ kính phương Đông thì kiến trúc toà nhà thờ đá nguy nga, chiếm lĩnh không gian, cổ kính kiểu phương tây. Nhà thờ này được xây từ hồi các cha cố Bồ Đào Nha đến truyền đạo. Các kiến trúc sư phương Tây đã dùng vật liệu 19. hệt như ở Vũ gia trang, cái gì cũng bằng đá. Tường đá, thềm đá, lan can đá, sân đá. Nhà thờ uy nghi một màu xanh cẩm thịch quý giá. Thấy chiếc xe du lịch sang trọng, vị linh mục vội ra đón. Ông người Tây, râu dài kín ngực, nhưng nhìn kỹ còn rất trẻ, mắt xanh biếc, người son sả. Huy, Thu Hằng, Nô en đều nói chuyện với ông bằng tiếng Pháp. Ông thắp nến, đọc mấy câu kinh chiếu lệ, điệu bộ có gì lúng túng, không tự nhiên. Tại hai cô gái trẻ đẹp này chăng? Tại giọng phát âm tiếng Pháp rất chuẩn của Huy? Ngôn ngữ gợi nhớ miền đồng nho, lâu đài mái đá đen thời Trung cổ! Sau lần áo chùng đen, tấm thân trẻ trung của người linh mục sống động. Và đôi mắt, tuy khác mầu, nhưng cũng có gì giống bà sư chùa Cả. Sao? Lại thế nữa ư. Một trường hợp nữa ư. Sao chàng trai này rời bỏ quê hương đầy rượu nho ngọt lịm và thịt da thiếu nữ như nắng hồng, đến đây khổ hạnh tu hành. Chẳng lẽ cũng chán đời, thất tình? - Người linh mục trẻ đẹp này chắc thuộc Nhã ca “nguyện người hôn tôi bằng cái hôn của miệng người. Vì ái tình chàng ngon hơn rượu”. Lúc ra về. Huy đọc ngân nga. - Lạ nhỉ - Kinh thánh trang nghiêm sao lại có những như thế. - Chương “Nhã ca” của Salômôn rất hay trong kinh thánh. “Hỡi các cô gái Giê se xa lem Ta ép nài các người Bởi những con hoàng dương hay là con nai đồng nội Chớ kinh động chớ làm tỉnh thức ái tình ta Cho đến khi nó muôn”. - Sa lô môn là ai – Thu Hằng hỏi ngây thơ. - Đó là vua trị vì Y sơ ra ên thời thịnh trị xa xưa. “Vua Salômôn làm cho mình một cái kiệu bằng gỗ Liban Người làm các trụ bằng bạc Nơi dựa lưng bằng vàng Chỗ ngồi bằng vải màu điều Còn ở giữa lót bằng ái tình Của cá con gái Gieruxalem”. Vua có những vần thơ ca ngợi người yêu của mình, và đó là những dòng tuyệt tác của chương Nhã ca. “Em gái ta, tân phu ta là vườn đóng kín. Là nguồn nước khoá lại, là nguồn suối niêm phong. Đám cây minh là vườn địa đàng Có thạch lựu và trái ngon 20. Hoa phụng tiên và cây cam tòng”. Nhã ca kinh thánh còn “nói rõ”: “Hai nương long mình như cặp con sinh đôi của hoàng dương” Thả ăn giữa đám hoa huệ”. Đố Nô en và Thu Hằng biết câu đó “tả” cái gì. - Chịu. - Đôi vú thiếu nữ. Nô en và Thu Hằng bật cười. Chiếc xe “đít vịt” máy êm ru. Nô en đeo găng trắng cầm vòng lái. Đường quê ngoằn ngoèo giữa đồng lúa ngầm ngập nắng thu vàng. Chiếc xe như một con cánh cam nhấp nhô rón rén... * * * Dục kéo tấm thảm treo tường hoa văn trống đồng sang một bên. Lộ ra một cánh tủ đặc biệt. Thoáng nhìn tưởng chỉ là gỗ áp tường. Anh tra chìa khóa. Cánh tủ lim dày nặng nề quay, trong đó là két sắt như khối đá dựng đứng. Có của phải giữ lấy của. Chỉ thằng ngu mới không biết giữ của. Của đổ mồ hôi sôi máu mắt mới kiếm ra được, tội gì để kẻ trộm nẫng mất. Thời buổi bây giờ không khoá tủ nào có thể chống được chúng. Phải có kết hợp với sự “đánh lừa” không để chúng phát hiện mục tiêu. Dục tự tay thiết kế hệ thống bảo vệ của cải này. Xi măng cốt sắt dày bao quanh tủ. Gỗ tủ dày ba phân và thảm trang trí phủ ngoài, đánh lừa... Dục rút ra một xấp bạc, đồng thời đảo mắt soát gói vàng lá, vàng nhẫn, hạt xoàn. Xấp tiền này đem “viện trợ” cho ông già xài mấy tháng tới. Ông không túng thiếu gì, nhưng anh thấy phải có nghĩa vụ cung cấp đều đặn để ông tiêu pha thoải mái. Chỉ có điều “buồn cười” là ông cứ tiêu tiền của ta những vẫn cứ giận, khinh ta – Nhưng thôi, biết làm thế nào. Tính cách ông đã “bị” ổn định. Cố chấp! Không thể thay được nữa! Mỗi người trên đời đều có một người cha. Và con thường giống cha. Ta cũng có một người cha và đã giống ông ấy về cơ thể dung nhan. Cân đối, đẹp trai, tuấn tú. Ông ấy thông minh, ta cũng không ngu đần. Ông ấy hoà hoa phong nhã, ta cũng hào hoa phong nhã. Vậy mà sao hai cha con không thể sống chung một mái nhà. Lạ thật, sao thế nhỉ? Ta hiểu cha ta. Ông ấy là một người sang trọng. Từng có tiếng một thời. Nói theo kiểu đời xưa là có danh vọng, sự nghiệp. Không phải loại giá áo túi cơm. Ta kinh trọng ông. Nhưng buộc vẫn phải dùng một từ thiếu lễ độ để chi ông: điên. Điên mang nội dung xã hội chứ không phải bệnh lý thần kinh. Ông đã bị cuộc đời “nhào nặn” thành một người không phải ông. Thời gian sói mòn, sự lặp đi lặp lại nhuộm màu, hoàn cảnh tác động. Ông đã thành người trung dung, người “tòng tâm sở dục bất du cả”. Việc ông giận cả ta lẫn Trinh – con trai con gái của ông, hoàn toàn mâu thuẫn với bản chất ban đầu của ông. Cái “tội” của ta và Trinh chính là “phù hợp” với tính cách ban đầu thủơ còn 21. như tờ giấy trắng của ông chứ. Vậy mà ông về già, đã cố chấp, đã giận, đến nỗi bố con khó mà ngồi trò chuyện cùng nhau. Đến nỗi ta và Trinh cảm thấy mái nhà “Cổ phong” ngột ngạt và nên có khoảng cách không gian với ông. Dục đút xếp tiền vào túi mở máy chiếc Vétspa phóng về Cổ phong. Cổng đóng, lá vàng phủ ngập ngôi biệt thự hiu hắt. Mùi cỏ, mùi rêu, mùi ẩm mốc bốc lên. Ông già đi vắng. Dục ngồi một mình trong phòng khách vắng lạnh ngắm bức tranh thuỷ mạc có từ đời cụ Án. Bao nhiêu năm, cái gì ở đâu cứ ở nguyên đấy. Những bức ảnh cũ ố vàng. Đáng chú ý nhất là mấy bức chụp từ năm 1946, ông Huy đứng bên cạnh các bộ trưởng Chính phủ Lâm thời. Đặc biệt gợi tả phong thái của ông là bức bên bàn đàm phán với phái đoàn Pháp. Mắt sáng quắc, gương mặt kiên nghị và điềm tĩnh đối chọi với những gương mặt ngoại giao của kẻ quyết không chịu mất cái thuộc địa đã đô hộ tám mươi năm có lẻ. “Hộp ảnh” về mẹ thì nhiều nhưng lại quá đơn điệu. Toàn một dạng trên bục diễn đàn. Chỗ nào cũng thấy mẹ đang “huấn thị” cho hội nghị. Mẹ là một thủ trưởng cao cấp làm công tác tư tưởng. Nhất cử nhất động, một câu nói, một cử chỉ, cách trang phục đều toát ra sự định hướng tư tưởng. Mái tóc búi (không phi dê) biểu thị tính dân tộc. Màu áo cổ thể hiện cuộc chiến tranh vệ quốc. Cách trang phục giản gị qua loa (đôi khi lôi thôi lếch thếch) là sự thách thức lối sống hưởng thụ tư sản. Kiểu quần áo cổ lỗ để ngăn chặn các mốt thời trang đang bùng nổ vì đó là hàn thẻ biểu của sự suy đồi. Thế mới biết các bác phó may cũng có vai trò triết học, xã hội học chẳng kém ai... Dục bước ra vườn. Những hàng cây - bạn tuổi thơ của anh vẫn như xưa. Vẫn vẻ xù xì gốc cổ thụ, vẫn đầy rêu ướt rượt những cành xa. Vừa ngày nào còn chạy lon ton quanh nó, vàng tay nhỏ xíu bíu lấy mắt gỗ, leo trèo bắt ve trẩy quả, vậy mà giờ ta đã ra người thế này. Ta thua kém những cái cây này nhiều quá, chán thật! Dục ngồi xuống một gốc sấu. Nắng qua tầng cây soi một chấm tròn sáng trưng trên đôi mắt khép lơ mơ... ... Bà Đức Hạnh đẻ Dục trong ngôi nhà sàn người Thổ, chiến khu Việt Bắc, bên bếp lửa bập bùng với chảo rong riềng luộc đang sôi. Năm ấy, sắp đến tháng sinh (đứa con thứ hai, đứa thứ nhất bị xẩy thai lúc 6 tháng), nhưng nữ đồng chí Đức Hạnh vẫn cố đi một chuyến công tác xa cần thiết. Quần đen gon chặt, áo gụ, tay nải đeo vai, nữ thủ trưởng trẻ tuổi một chiều dừng chân bên mái nhà sàn bốc khói lam chiều. Những cơn đau dữ dội làm cô lả đi. Ông già Thổ chủ nhà trông thấy hiểu ngay cơ sự. Phong tục bản làng ngu muội tối tăm, ông xua tay thẳng cánh. Người đàn bà sững lại, mắt loé tia sáng quắc dữ dội: “Ông không có quyền, dù đây là nhà của ông. Ông là công dân thuộc chiến khu, phải có tinh thần của người kháng chiến. Tôi là cán bộ kháng chiến, trên đường đi công tác, không may trở dạ. Ông phải có nhiệm vụ giúp tôi. Đó chính là thể hiện lòng yêu nước”! Ông già Thổ sững sờ. Kháng chiến là những đoàn quân oai vệ, súng trên vai hùng dũng ra trận. Kháng chiến sao lại là người đàn bà bụng chửa vượt mặt đến đẻ nhờ thế kia được! Người đàn bà bước lên thang, thản nhiên vào nhà. Cơn đau làm bà hộc lên, nằm vật ngay bên bếp. Ông Thổ gọi vợ con khênh “bà kháng chiến đau đẻ” ra rừng. Họ đã xúm vào cầm chân. Bà Đức Hạnh đang mê man, vụt tỉnh lại, rút phắt khẩu súng dắt bên cạp sườn: 22. - Ai động đến, tôi bắn. Tôi vì nước vì dân. Ai hại tôi kẻ đó là phản động, là tay sai của Pháp. Chỉ kịp nói thế, bà lại giẫy lên. Cùng lúc vỡ đầu ối, bà thét một tiếng xé ruột, chân tay co giật làm cướp cò khẩu súng lục. Không trúng ai, nhưng đủ làm cả nhà ông Thổ kinh hoàng bỏ chạy. Sau khi cái thai ra rồi, bà nằm lịm. Nhưng tay vẫn lăm lăm súng lục. Bà nằm rất lâu. Đứa con cựa quậy bùng nhùng dưới chân, kệ nó. Bà phải nằm hồi sức, để lát nữa có thể bò dậy đi tìm một con dao cắt rốn cho con. Bếp lửa bập bùng xua bóng tối ngoài cửa nhà sàn. Đến nửa đêm thì bà đã có thể ngồi dậy được, ôm con trong tay, khẩu súng vẫn phải để dưới tã lót. Củi hết, bà lại nhóm. Không dám ngủ, sợ bị chủ nhà lừa khênh ném ra rừng. Bà nặn đôi vú chưa có sữa của mình đặt vào đôi môi nhỏ xíu sơ sinh, cho nó bớt khóc. Đói và mệt, lấy rong riềng trong chảo ra ăn. Bà ở lại ngôi nhà sàn ấy ba ngày, với súng kè kè bên người. Ngày thứ tư, thấy đã đủ sức, ôm con băng ràng vượt suối về cơ quan... ... Dục từ vườn trở lại phòng khách. Anh xem đồng hồ. Đã muộn. Có thể cha anh đi đâu sắp về. Gặp ông cụ chẳng thích thú gì. Anh đặt xấp tiền lên bàn ghi mấy chữ thăm hỏi rồi ra về... Chiếc Vetpa Spring máy nổ giòn ngoài ngõ. * * * Năm ấy số tết “Hồn Đất Việt” – báo của chú ruột Nô en – đã lấy ảnh Huy và Nô en dạo chơi bên Hồ Gươm làm tờ bìa. Ảnh đẹp quá, nên báo khá chạy. Nô en yêu Huy ngay sau khi ở Vũ gia trang về Hà Nội. Thu Hằng phát hiện ra điều đó nhờ đọc trộm những bài thơ “bâng khuâng” trong sổ tay Nô en. Cô “điện gấp” về cho anh trai. Huy rời Trại Dẻ, tức tốc về biệt thử Cổ phong, để có “cự ly” gần, gì chứ yêu nhau thì nhanh lắm. Nhất là lại có “liên lạc viên” Thu Hằng. Tình yêu Huy và Nô en là một “cuộc tình” vào loại “tiên tiến” thời bấy giờ ở Hà Nội, chịu “ảnh hưởng của tư tưởng tự do châu Âu”, so với các cuộc tình lễ giáo của giới quý tộc phong kiến còn khá thinh hành. Ba me Nô en thuộc loại “đả cựu nghinh tân” nên tuyệt đối tôn trọng “tự do tình yêu” của con gái với trưởng nam quan Án sát tỉnh Bắc. Ông Tham nhà băng đón người yêu của con gái đến nhà như đón thượng khách, cư sử bình đằng thân tình. Ông cùng đọc thơ tình Véc len, Muýtxê với chàng rể tương lai, rồi cùng mặc đồ thể thao lướt xuồng máy du lịch chơi Hồ Tây. Ông vui vẻ, cười luôn miệng, luôn ôn lại kỷ niệm ngày ông yêu tiểu thư Nhã Phong - mẹ Nô en bây giờ. Ông kể cho “đôi bạn trẻ” (Huy và Nô en0 về chuyện tiểu thư Nhã phong, con quan Thượng Thư “cấm cung” khuê các, mà phải lòng ông chết mê chết mệt, cứ nhất định một lời chỉ lấy ông, nếu không sẽ tự vẫn. Mặc dù lúc đó ông chỉ là “bạch diện thư sinh” hàn vi. Ông tỏ ý căm giận tột độ cái lễ giáo Khổng Mạnh đã “bỏ tù” con người. Tình yêu là cái đẹp đẽ nhất của tuổi trẻ thì bị cấm kỵ, đè nén. Con chim đực và con chim mái say mê tiếng hót và bộ lông đẹp của nhau, tìm đến nhau, để xây tổ ấm. Còn con người thì bị “nam nữ thụ thụ bất thân” không được tự tìm đến người mình thích. Chỉ được nhắm mắt ưng thuận người được mai mối, gả bán “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Rõ ràng con người tự đặt ra “luật lệ” để hạ thấp mình, không cho mình 23. bằng con vật trong lĩnh vực tự do yêu đương. Bọn phong kiến có ngu không? Phải giải phóng con người khỏi các “nhà ngục Bátxti lễ giáo “ (lời ông Tham). Phải nã những phát đại bác long trời lở đất vào đó. Cá nhân con người phải được tự do tuyệt đối. Tự do tình yêu muôn năm! Ông Tham cho rằng để bù lại việc mất quyền tự do tình yêu, bọn phong kiến đã có quyền “lắm thê nhiều thiếp” hợp pháp mà bọn tư bản không có. Tư bản chỉ được phép một vợ chính thức (còn dấu diếm thì tuỳ - nhưng không hợp pháp). Cũng là một chứ bù trừ. Ông cười gì gì chửi cha bọn phong kiến đạo đức giả, nhưng cũng “láu” ra phết... Huy đem người yêu đến trình diện cha tại dinh án sát, có sự “hộ vệ” của Thu Hằng. Mấy cha con chiều chiều đi chiếc xe ngựa cổ mui gỗ mun trạm trổ cửa kính phủ rèm lụa xanh, dạo chơi quanh cá tỉnh lỵ quạnh vắng; hoặc dọc bờ sông Cầu ngắm những cánh buồm xa. Cứ thoáng thấy bóng chiếc xe đâu là dân hai bên đường lại chỉ trỏ xì xào. Danh tiếng chính trực của cụ Án, ai cũng đã một lần nghe, nhiều khi được giai thoại hoá. Huy và Nô en chưa thể tính chuyện hôn nhân, vì Nô en còn phải đi học. Ông Tham bắt con gái phải học đến cùng, phải giỏi giang như con trai. Huy thì thấy “chưa có hứng” để đi làm công chức. Nghỉ ngơi cái đã, sau bao năm vùi đầu học hành thi cử. Tuy vật “rong chơi” mãi cũng chán, Cậu Cử vụt nẩy ra ý định thích hoạt động xã hội. Chiếc ô tô hòm màu đen quan Án mua lại của quan Tổng đốc, từ lâu xếp xó, vì cụ Án ghét đi ô tô, giờ được Huy đem ra dùng. ... Một buổi sáng, Huy, Thu Hằng, Nô en đậu xe trước cửa hàng Thịnh Điền - một làng nhỏ cách Vũ gia trang dăm chục ki lô mếch... Làng cổ, nhiều di tích, nhiều cô gái đẹp. Trồng dâu, chăn tằm, dệt vải, con gái má trắng như phấn, chân tay nuột nà. Nhưng Huy chọn Thịnh Điền, cái chính là nơi đó nhiều thợ nền, mộc giỏi. Được báo trước, lý trưởng cùng Hội đồng hương chính áo dài khăn xếp, trịnh trọng đón cậu Cử, tiểu thư con quan Án và nữ sĩ phóng viên nhật trình “Hồn Đất Việt”. Trong nhà Hội đồng, Huy trải bản thiết kế kiểu “Nhà Văn minh” áp dụng cho dân quê mà chính anh nghĩ ra. - Thưa ông lý và các chức sắc trong xã. Thưa các bác phó mộc phó nề - Huy trịnh trọng thuyết trình – Dân quê Việt Nam hiện nay nói chung phải ở trong những ngôi nhà ẩm thấp tối tăm mất vệ sinh. Hàng ngàn đời nay cứ như thế, tại sao? Ba gian giữa, hai buồng, không cửa sổ tối om. Bố mẹ vợ chồng con cái ở chung đụng không có phòng riêng, vô cùng bất tiện. Sao khổ thế, ngu dại thế. Quanh nhà thì cống rãnh nước tù động, nguyên nhân sinh ra muỗi. Chuồng lợn, chuồng gà, nơi vệ sinh ngay đầu nhà, bốc mùi hôi thối. Dân quê mình ăn ở dị mọ khổ sở thế. Hãy xem người châu Âu, người thành phố ở thế nào. Nhà cao ráo, đầy cửa sổ, vườn cây bao quanh, trong nhà chia nhiều phòng để mỗi thành viên gia đình đều có không gian riêng biệt, tự do... Huy say sưa trình bày kiểu nhà văn minh của mình. Nền cao một mét, hiên trước và hiên sau treo mành hoặc trồng thiên lý làm khu không khí đệm tạo hơi mát trong nhà. Xứ mình, nóng nực là cực hình đối với con người. Khi nóng, đầu óc người ta không minh mẫn được, lắm lúc phát điên lên và cứ ngu đần đi. Chỉ mát và lạnh, đầu óc mới tỉnh táo, sảng khoái. Khi hậu quyết định quan trọng lắm. Quanh nhà dứt khoát phải trồng cổ thụ. Nhãn, mít, sấu, ổi, bưởi, na v.v... Vừa cho quả ăn, vừa cho “vì khí hậu” mát mẻ. Nhà năm gian phải có vách ngăn chia năm phòng. Phòng khách, phòng vợ 24. chồng bố, phòng vợ chồng con, phòng trẻ nhỏ, phòng để làm kho v.v... Tuyệt đối không được ở chung như bầy đàn... Để làm mẫu, làm gương, tôi xin biếu làng ta một ngôi nhà như thế. Huy trao cho ông lý trưởng gói tiền, mỉm cười. - Nhân dịp cô Nô en, bạn tôi, qua thăm làng ta, đất văn vật, phong cảnh hữu tĩnh, đất mỹ tục khả phong, tôi đề nghị lấy tên ngôi “Nhà Văn minh” tôi biếu tặng kia là: “Nhà ánh sáng Nô en”. - Thưa cậu Cử và hai tiểu thư – Lão lý trưởng chắp tay – Nhà văn minh của cậu hay lắm. Tôi thấy tất cả dân Nam mình đều nên làm như thế này. Kiểu nhà cổ dân quê thật đáng ghét. Tôi thấy cậu thật là người có đầu óc khai sáng cho dân quê... Tôi đề nghị thế này: Tôi có một mảnh đất đẹp, sẵn có cây cổ thụ xung quanh rồi. Tôi sẽ làm ngay ngôi “Nhà ánh sáng Nô en” ở đó, rồi cử bà Ba của tôi ra đấy trông nom. Tôi sẽ khắc một cái bia nhỏ “Nhà ánh sáng Nô en do cậu Cử Vũ Quang Huy tặng Thịnh Điền xã”. Tôi sẽ mướn phường chèo về diễn nhân dịp khánh thành nhà và qua đó cổ động toàn dân làm nhà theo mẫu này. Thưa có được không ạ... - Tốt lắm... Lão lý còm cõi, má hóp mắt thâm quầng, người một tay xách nặng vì ba vợ thế mà thông minh nhanh trí láu lỉnh. Tự dưng vớ được cục tiền làm nhà riêng cho vợ ba, mà nghe hợp lý đâu ra đấy. Tôi ấy, hắn gọi đội “múa đèn” của làng đến giúp vui tại nhà khách của lão. Dưới ánh trăng suông, cậu Cử và hai tiểu thư ngồi trên trường kỷ có bà ba béo tốt trẻ trung của hắn lăng xăng hầu hạ trà nước. Mười hai cô gái trẻ đẹp chưa chồng, lụa là yểu điệu thướt tha, hai tay bưng hai đĩa đèn nhịp nhàng múa hát chúc tụng. Ánh đèn lấp loáng soi rõ những nụ cười xinh, môi ăn trầu cắn chỉ, răng đen nhánh. Huy thấy lòng vui lạ lùng... * * * Chiếc thảm hoa văn trống đồng chim hạc gợi tả tinh thần cội nguồn dân tộc, thật đẹp thật văn hoá. Nó làm nhiệm vụ trang trí một cách cao sang. Nhưng nó còn làm nhiệm vụ nguỵ trang: Đằng sau nó là tủ, két đầy vàng và tiền. Đời thường có sự phối hợp “hài hoà” hai yếu tố như vậy. Dục rút một xếp tiền rồi sập két. Một xấp dày bằng xấp hôm trước đem cho “ông già”. Tiền, hừ, tiền... Tha hồ cho các ông văn sĩ nghèo kiết xác từ Âu sang Á, từ cổ đến kim, ròng rã kiên trì viết hàng núi sách chửi rủa, khinh bỉ đồng tiền. Nhưng chả có ai nghe theo, trừ thằng ngốc. Chiếc Vetspa spinh lại lao ra đường. Huyền đợi anh nơi gốc cây phượng vĩ cổ thụ bên hồ. Động tác nhẩy lên nệm sau xe của Huyền đã thành thục lắm. Vòng tay ôm lấy eo. Chiếc xa bật xi nhan xanh đỏ nhấp nháy. Một cặp dạo chơi đêm... 25. Cách đấy ít hôm, cũng bên gốc phượng vĩ cổ thụ này có một em gái nhỏ ngồi bán thuốc lá lẻ. Em gái mặt tròn xoe, mắt lấp lánh ánh sáng tuổi học trò. Dục dừng xe mua một bao 555. Và ánh mắt em ánh lên tia kinh hoàng ngây thơ. Thường thì người ta chỉ dám mua một điếu lẻ. Dục khoái chí về ánh mắt đó. Uy lực của đồng tiền. Một đứa trẻ tuổi học trò như tờ giấy trắng kia... Phản ứng của nó trước đồng tiền. - Em mới bán thuốc lá ở đây? Không sợ à? - Sợ gì? - Bọn du đãng, ma cô, gái điếm. Khu vực này là tụ điểm của chúng! - Thế ạ. Em không biết. Nhưng em có làm gì chúng đâu. Dục nấn ná nói chuyện cho vui. - Đi bán thế này, thời gian đâu học bài. - Em trượt đại học, ở nhà rồi - Mắt cô bé cụp xuống buồn bã. - Một tối kiếm được bao nhiêu? - Đủ tiền mua rau cho gia đình. Ngày hôm say Dục lại mua một bao ba số ở đó nữa. Rồi hôm sau nữa nữa, mỗi ngày một bao. Em bé vụt “giầu” nhanh. Dục thành ân nhân của em. Mắt em đã mag cái nhìn hàm ơn. Ôi, thảm hại quá con người, chỉ tiền chênh lệch vài bao thuốc lá đã đổi được sự ân huệ. Bây giờ Dục mới “đi sâu một bước nữa”. - Em tên gì? - Huyền. - Tên hay quá. Huyền này, anh thấy em bán lẻ chả được bao tiền. Em có muốn “bán buôn” không. Anh có chỗ tiêu thụ. Em sẽ cung cấp cho anh mỗi ngày vài tút. Anh cũng “buôn”. Cô bé bán thuốc bày mẹt còn mong gì hơn thế nữa. Hồi hộp sung sướng đến run người... Ta bắt đầu kiếm ra tiền. Thế là ta đã kiếm ra tiền, không phải ăn bám vào bố mẹ nữa. Ta sẽ đủ tiền để ăn mặc theo mốt cho ra dáng một thiếu nữ mới lớn. Huyền thường đem thuốc lá đến cho Dục vào các buổi sáng. Quan hệ “làm ăn” buôn bán bình đẳng”. Dục trả tiền “công sức lao động” cho Huyền, chứ không phải Huyền nhận của bố thí. Chính điều đó tạo nên quan hệ gắn bó thân tình. Dục nhận ngày vài tút ba số, nhờ người bán lại, lỗ tí chút. Đó chính là số tiền mà Huyền “được lãi” mỗi ngày. Dục không nóng vội. Vài tuần sau, anh mới hỏi chuyện hoàn cảnh gia đình Huyền. Dục bật cười sau khi nghe Huyền nói. Đúng như ước đoán của anh. Phải, như thế là đúng “quy luật”. Không có gì khó hiểu. Tất yếu là phải như vậy. Nhà Huyền lúc đó đã nghèo túng đến mức báo động. Ông bố, người Nghệ Tĩnh, con nhà cốt cán hồi “cải cách ruộng đất”, lớn ngồng ngỗng rồi, được cấp tốc cho đi học bổ túc công nông. Khoản “học gạo” thì không ai bằng dân xứ sỏi đá khoai sắn gió lào. Cậu học suốt ngày đêm, không thông minh, nhưng bài vở làm như cháo chảy. 26. Cậu ra làm giáo viên cấp 2, xung phong lên miền núi, nhờ công đoàn tìm người yêu hộ, cũng như tổ chức đám cưới đời sống mới giúp (chỉ có hát hò, uống nước chè xanh, hút thuốc lá cuốn). Cậu tiến vùn vụt, được cử đi học Học viện Triết học, rồi được giữ lại trường làm giảng viên. Đến nay bố Huyền đã dậy ở đấy hai mươi năm. Và mẹ Huyền làm nhân viên in rônêô giáo trình. Gia đình ở trong khu tập thể, một gian lá gồi, có vẩy tí giấy dầu làm bếp. Toàn bộ thu nhập chỉ là đồng lương với mớ tem phiếu. Gia tài đáng kể nhất là kệ sách chính trị triết học, với những chồng giáo trình lưu cữu. Mỗi quý một lần bố Huyền rời bục giảng xuống cơ sở xã huyện để “lấy thực tế bổ sung cho bài giảng”. Và bài giảng của ông bao giờ cũng có mục so sánh cuộc sống của nhân dân ta trước kia nghèo khổ, bây giờ no ấm thế nào. Mẹ Huyền ki cóp nước gạo cọng rau nuôi được con lợn, ông bắt bán cho “công ty thực tphẩm” giá “nghĩa vụ” rẻ như bèo (bằng 1/10 giá ngoài thị trường). Họp cơ quan, ông luôn đấu đá căng thẳng, tự phê bình mình trước về cái “tội” chung chung chưa triệt để phấn đấu tu dưỡng, chưa rèn luyện tác phong giản dị cần kiệm (còn giản dị cần kiệm đến múc nào nữa?), rồi quạt cho hết lượt từ thủ trưởng đến nhân viên, mỗi người “lãnh” một khuyết nhược điểm từ quan hệ nam nữ đến mơ hồ về lập trường giai cấp, từ thiếu tác phong quần chúng đến không có nhiệt huyết cách mạng. Công đoàn Học viện muốn “cứu nguy” khi thấy một năm tiền mất giá tới sáu lần, bằng “kế hoạch phụ” kiếm thêm tý chút thu nhập cho anh em: tổ chức từng nhóm giảng viên đến tận cá cơ sở cơ quan dân chính đảng trong thành phố, dậy thêm ngoài giờ cho những ai muốn có bằng trung cấp, cao cấp chính trị triết học. Cũng nhiều người muồn học “hàm thụ” vì “luật lệ” muốn được đề bạt trưởng phòng giám đốc đều phải có bằng này giống như muốn làm linh mục phải qua trưởng dòng. Bố Huyền kiên quyết phản đối. Ông nói: triết học không phải là thứ đi “bán rao” cho ai, lấy tiền. Tiêu chuẩn phẩm chất tốt, diện “bồi dưỡng kế cận, sắp đề bạt” mới được cử đến Học viện để học. Tại sao ta lại đi dạy thuê ngoài giờ giống như ca sĩ đi hát thuê ở ngoài công viên. Không rượu không bia, không thuốc lá, uống nước lã đun sôi, đi dép cao su đen... và tối tối tự học hàm thụ giáo trình đại học kinh tế. Lương ông dần chỉ còn đủ mua 13kg gạo theo sổ và một mớ rau muống. Huyền không chịu được “thảm cảnh” đó, cô đi bán thuốc là bày mẹt, ông vô cùng buồn phiền cho rằng con “đua đòi”, “tha hoá” lo “hưởng thụ”. Bây giờ đủ gạo đủ rau ăn, còn “kêu ca” nỗi gì; trước cách mạng, ông phần nhiều ăn khoai sắn chứ đâu được như bây giờ... Chiếc vetspa đỗ lại trước một cửa hàng ăn sang trọng. Dục gọi món ăn, toàn những thứ người nước khác người ta ăn hàng ngày: gà rán, cá rán, thịt bò hầm, bia hộp. Nhưng bữa ăn bằng cả hai tháng lương bố Huyền, làm sao không gây ấn tượng mạnh cho cô bé. - Ăn đi em, ăn cho vui... Tiền bạc không tạo được ra niềm vui. Đúng lắm. Các nhà rao giảng đạo đức xưa nay bao giờ chả nói câu cửa miệng thế. Các nhà tỷ phú, có phải đời toàn niềm vui đâu. Lắm khi còn khổ ra khổ nữa. Nhưng ngược lại (biện chứng của vấn đề, hai mặt mâu thuẫn và thống nhất của vấn đề) tiền bạc có nhiều điều kiện để mua được niềm vui... - Ăn đi em cho vui... Ở tiệm ra, hai người đi công viên, dạo chơi dưới những hàng cây đêm lộng lẫy chùm đèn màu. Trông như một đôi tình thân. Hệt thế. Nhưng thực ra có yêu đương gì đâu. Cô bé bằng nửa tuổi ta. Tươi mát, nhưng cũng không phải là loại nhan sắc. Nhưng cái chính là giữa ta và cô là một